Đôi khi tôi
có cảm nghĩ rằng thầy tôi đă bất công khi đưa tôi sang chùa Linh Phong để
sống với một vị thầy trẻ rất ư cổ hủ, lạc hậu. Tôi biết mẹ tôi cũng buồn khi
thấy tôi không c̣n được ở viện Hải Đức nữa. Trước kia mẹ không có ư cho tôi
xuất gia tại viện Hải Đức, nhưng khi tôi đă được xuất gia ở viện, được gần
gũi tu học bên thầy, được ăn học, sinh hoạt và hưởng mọi qui chế tiêu chuẩn
như một học tăng của viện, mẹ tôi thấy là không c̣n chỗ nào tốt khiến mẹ yên
tâm hơn là nơi này cả.
Bây giờ,
các chú Dũng, Kính, Sáng v.v… nhởn nhơ bên viện, hằng ngày ôm kinh, ôm sách
ngồi học, ăn uống đă có các d́ vải nấu, đến giờ phóng tham th́ đi dạo núi
hóng mát… c̣n tôi và chú Thiệt th́ sống trong một thế giới âm u, hắc ám. Cho
dù có học đ̣i sự rộng lượng cao cả đến mức nào đi nữa, tôi vẫn thấy rằng tôi
và chú Thiệt đang bị thiệt tḥi. Con nít chúng tôi hay so đo phân b́ lắm.
Nếu hoàn cảnh bắt buộc phải chịu th́ cũng phải chịu, nhưng làm sao khỏi tủi
thân và thèm muốn được trở về với khu viện Hải Đức đẹp đẽ, khoảng khoát kia!
Sự khác nhau giữa hai nơi trên cùng một dăy núi, mẹ tôi cũng thấy rất rơ.
Chắc chắn là bà phải se ḷng khi thấy dứa con trai nhỏ của ḿnh phải xa thầy
sớm, bỏ nơi rộng lớn, tiện nghi để về sống trong thế giới nhỏ hẹp, ít người,
thiếu thốn mọi bề mà rồi phải đặt ḿnh dưới sự hướng dẫn của một học tăng dự
thính vốn không được xuất sắc ǵ cho lắm. Nhưng sự khác biệt giữa viện Hải Đức
và chùa Linh Phong không phải chỉ ở vấn đề khổ nhọc vật chất mà c̣n ở phần
tinh thần nữa. Đâu phải chỉ người lớn mới biết hân thưởng những niềm vui
tinh thần, c̣n con nít th́ không! Và đâu là chỗ cách biệt giữa vật chất và
tinh thần khi bầu không gian nơi tôi sống bị thu hẹp lại và tôi cảm thấy
buồn tẻ, trống vắng, ủ dột trong ḷng? Ở viện, tôi có thể nh́n thấy biển Nha
Trang mỗi chiều khi đi dạo lên tháp chuông hay qua Kim Thân Phật Tổ. Nơi
chùa Linh Phong, dù cũng cùng trên núi, vậy mà chỉ thấy được một khoảnh phố
phía bên trái, một khoảnh gia cư phía bên phải và một khoảnh đồng trống bị
cắt đôi bởi một vài cao ốc đồ sộ phía mặt tiền. Vào mùa xuân, cây cỏ um tùm
bao phủ quanh ven núi, tôi đứng trong sân chùa chỉ nh́n thấy được những cây
táo nhơn vươn lên, đan kết thành một hàng rào rậm rịt. Thế giới của ngôi
chùa này là vậy, không gian bít bùng, y như một hải đảo nhỏ —
không, hải đảo
c̣n đỡ hơn nhiều v́ có thể nh́n thấy trời cao nước rộng. Đă vậy, tôi c̣n
phải sống dưới sự kiểm soát quá đáng với những tư tưởng và quan niệm lỗi
thời của thầy Trừng Hùng. Thầy ấy mang cả thế giới khuôn thước, kiểu cách
của cố đô vào đây, áp dụng vào ngôi chùa nhỏ này, buộc tôi phải lặn hụp theo.
Suốt ngày tôi và chú Thiệt phải làm việc trong chùa, hết việc này dến việc
khác. Thầy ấy cứ ngồi một chỗ mà sáng tạo ra công việc cho chúng tôi làm, dù
thầy tôi đă có lần nhắc rằng chúng tôi cần có thời giờ học hành. Một số sách
thầy Thông Chánh tặng tôi để đọc và học thêm, thầy Trừng Hùng tịch thu hết,
bảo rằng trong luật dạy không được đọc, học các sách vở bên ngoài, chỉ được
đọc kinh Phật thôi, khi nào có đủ tŕnh độ Phật Pháp rồi mới được nghiên cứu
học thêm sách ngoài. Điều ấy cũng đúng phần nào cho hoàn cảnh những chú tiểu
ở thời đại xa xưa, khi mà vốn liếng kiến thức của người Tàu cũng như người
Việt ta chỉ vỏn vẹn trong Tứ Thư, Ngũ Kinh, Luận Ngữ v.v… Thầy ấy
cũng đâm ra đố kỵ thầy Thông Chánh, có lẽ v́ mang mặc cảm thua sút. Thầy cấm
tôi rời khỏi chùa một bước ngoại trừ khi qua viện học. Sự cấm đoán này hẳn
là nhắm vào việc tôi qua viện để thầy Thông Chánh dạy kèm. Thời gian đầu,
thầy Thông Chánh đích thân qua chùa Linh Phong dạy tôi, nhưng vào dịp an cư
kiết hạ, thầy Thông Chánh không rời viện được, tôi phải xin phép sang viện
để học thêm mỗi chiều. Thầy Trừng Hùng không thích chuyện tôi học thêm với
thầy Thông Chánh từ lâu. Sẵn dịp an cư kiết hạ (thường thường là chư tăng ni
các chùa cấm túc trọn ba tháng không rời chùa), thầy cấm tôi luôn. Tôi nói:
“Thầy con
có nhờ thầy Thông Chánh dạy kèm thêm cho con.”
“Lúc đó
chưa có lớp học, phải không? Cho nên mới nhờ dạy kèm. Bây giờ đă có lớp học
th́ c̣n học thêm ǵ nữa! Để thời giờ mà làm công quả trong chùa, lo tu nữa
chớ!”
“Nếu thầy
không cho con đi th́ cũng để con qua gặp thầy Thông Chánh nói lư do tại sao,
không thôi thầy ấy đợi con bên viện.”
“Không cần.
Mai có giờ học th́ qua nói với thầy Thông Chánh luôn. Bây giờ cứ ở nhà,
không đi đâu hết.”
Trong những
chuyện cấm đoán của thầy Trừng Hùng, tôi bất măn nhất là những chuyện liên
quan đến việc học. Thầy ấy luôn chủ trương rằng học nhiều th́ loạn tâm,
không tu được, không định được. Nghe ai nhắc đến chuyện học, thầy cười khinh
khỉnh. Thực ra, thái độ khinh bạc đối với kiến thức sau này tôi cũng đọc
thấy từ một số truyện tích trong kinh sách hay tiểu sử các vị Thiền sư đắc
đạo. Nhưng các vị ấy là những kẻ đă dứng ở ngoài và ở trên những tầm thường
của cuộc đời. Trên đỉnh cao chót vót của trí tuệ siêu việt, họ nh́n những
kiến thức của thế gian như là miếng giẻ rách. Ở đây, thầy Trừng Hùng đă thu
lượm được ǵ và đứng ở vị thế nào để tỏ thái độ khinh miệt tri thức như thế?
Phong cách giác ngộ không phải là điều có thể học đ̣i, bắt chước mà giống
được. Tôi nhớ hồi c̣n ở nhà, tôi đă từng chán ghét việc mài ghế nhà trường.
Nhưng đó là sự chán ghét tự nhiên của một đứa con nít ham chơi, hoặc ham
hưởng thụ thiên nhiên và cuộc sống chứ không phải là sự khinh miệt lố bịch
tầm phào của một tâm hồn, một trí óc rỗng tuếch, khi biết được chút ít ǵ
th́ bám chặt lấy, coi như là chân lư. Cái đầu óc địa phương hẹp ḥi mà nhiều
người dân cố đô mắc phải là thường tự cho rằng cái ǵ thuộc về xứ ḿnh cũng
đều nên thơ, độc đáo, tuyệt hảo cả. Tôi không bao giờ quên rằng ḿnh vốn gốc
người Huế khi có nhận xét trên. Ở một khía cạnh tâm lư thông thường nào đó,
hẳn là tôi phải dành nhiều cảm t́nh cho người Huế, nhưng quả là tôi khôog
thể chịu nổi một đầu óc thủ cựu, một tâm hồn cứng nhắc như một khúc gỗ, như
một viên ngói, một khối sắt như thế được.
Tôi nói ư
nghĩ đó cho thầy Thông Chánh nghe khi thầy đến gặp tôi trước giờ học. Thầy
lại khuyên tôi cố gắng chịu đựng thêm một thời gian nữa, v́ tôi đă sắp rời
Nha Trang để nhập học khóa Trung Đẳng Phổ Thông của Phật học viện Quảng Nam
ở Hội An. Tôi than:
“Có khi con
tưởng chừng là một ngày cũng không chịu đựng được nữa!”
Thầy Thông
Chánh an ủi, khích lệ tôi:
“Hăy xem đó
như những thử thách cho bước đầu xuất gia của ḿnh. Có lẽ thầy giám sự muốn
chú tập sống quen với mọi hoàn cảnh trước khi rời thầy để đi học xa đó. Sau
này không có thầy, không có người thân bên cạnh, sống ở xứ xa, làm sao chú
chịu nổi nếu bây giờ không luyện tập cho chí nguyện kiên cường, sắc bén? Im
lặng và nhẫn nại. Đừng để cho những cái tầm thường làm cho ư nghĩ ḿnh trở
nên tầm thường.”
Cũng nhờ
những lời khuyên nhắc của thầy Thông Chánh, tôi đă cố gắng kiểm điểm tâm
ḿnh, sửa đổi cho nó tốt đẹp hơn, hay ít nhất cũng giữ cho nó không trở nên
nhỏ mọn, thấp hèn. Tôi tập từng bước sự cởi mở và buông xả những tâm niệm
thù hằn, ganh tị, ngạo mạn cũng như những ư nghĩ và lời nói bài xích, chê
bai kẻ khác. Khi thầy Trừng Hùng làm điều ǵ khiến tôi bất b́nh, tôi tự chế
ḿnh bằng một câu niệm Phật vang mạnh trong ḷng. Có khi tôi phải mượn ư
nghĩ rằng thầy ấy là người anh lớn của tôi để khơi dậy ḷng thương trong
tôi. Hai tháng sau, tôi không thấy ghét thầy Trừng Hùng nữa. Nhưng vẫn không
sao thương quư thầy ấy như đă từng thương quư những vị thầy khác.
Cho đến một
hôm, sau nửa giờ ngồi thiền vào giấc khuya, tôi ngồi yên trên giường lắng
nghe tiếng tụng kinh của thầy Trừng Hùng, bất chợt tâm tôi nở ra như một
cánh hoa. Tôi thấy quanh tôi cái ǵ cũng đáng thương, cũng dễ thương hết.
Nhất là tiếng tụng kinh của thầy Trừng Hùng, nó mang cái vẻ bi thiết rất tội
nghiệp của kiếp người khổ lụy. Tôi nghe tiếng ấy mà trong ḷng quặn lên một
mối xúc cảm kỳ lạ. Tôi thấy thương mọi người, thương tất cả, kể cả thầy
Trừng Hùng, người đă từng gây cho tôi bao nỗi bực ḿnh, bất măn.
Trạng thái
ấy không phải là một trạng thái miên viễn. Nó xuất hiện nhất thời, lưu lại
trong tôi một thời gian rồi phai nḥa. Nhưng ít nhất, tôi đă có thể thương
yêu được thầy Trừng Hùng rồi. Tôi kể lại kinh nghiệm tâm linh đó cho thầy
Thông Chánh nghe, thầy ấy mừng cho tôi, khích lệ tôi thường xuyên tọa thiền
hay niệm Phật để tâm càng lúc càng mở rộng hơn. Tôi theo đó mà thực hành,
nhưng phải ba năm sau tôi mới nhận ra được những khúc mắc cũng như những cái
vi tế của bản ngă ḿnh.
T́nh thương
chân thật th́ không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian. Cũng không nằm
trong sự ly cách giữa những cái bản ngă với nhau. Nếu c̣n thấy kẻ thù để
thương yêu và tha thứ th́ tâm hăy c̣n nhỏ hẹp; đó chỉ là sự khỏa lấp cái bản
ngă thấp hèn của ḿnh mà thôi.
a
Hồ sơ học
bạ của lớp tôi được ghép chung với học bạ của lớp Sơ đẳng Phật học tại Phật
học viện Linh Sơn. Danh sách những chú tiểu sẽ lên đường đi Quảng Nam là
mười hai người. Tôi ngỡ là toàn bộ lớp tôi sẽ chuyển đi Quảng Nam để học lớp
Trung đẳng Phật học ngoài ấy. Nhưng không phải vậy. Lớp tôi chỉ có năm người.
Số c̣n lại hoặc chuyển đến một trường khác có tŕnh độ cao hơn như trường
hợp chú Tâm; hoặc chuyển đến một trường Trung đẳng Chuyên khoa Phật học thay
v́ Trung đẳng Phổ thông như trường hợp chú Thân, chú Đạo; hoặc không muốn đi
xa như chú Dũng, chú Kính; hoặc chưa đủ tiêu chuẩn để được chuyển đi như các
chú Hải và Thông. Các chú ở Phật học viện Sơ
đẳng Linh Sơn cũng chỉ được tuyển đi
bảy chú trong số gần cả trăm chú của Phật học viện. Nhiều chú ở Phật học
viện Linh Sơn không muốn đi học xa không phải v́ chưa hội đủ điều kiện nhập
học mà v́ các chú không muốn xa gia đ́nh.
Riêng tôi,
đi xa là điều rất hấp dẫn. Tôi mê cái đẹp của băi biển Nha Trang với nước
biếc trời cao ôm ấp bờ cát trắng, của ngọn đồi Trại Thủy với Hải Đức thơ
mộng nép ḿnh giữa cây cỏ xanh um, nhưng điều đó không ngăn cản được ước
muốn đi xa, t́m đến những ṿm trời mới lạ. Tôi mập mờ cảm thấy ṿm trời mới
lạ ấy dường như không phải là ṿm trời bên ngoài, ở Nha Trang hay ở Quảng
Nam, mà ở trong tôi, nhưng nó có vẻ như chỉ muốn được phơi bày từ sự phản
ảnh của một không gian mênh mông bát ngát. Cho nên, khi loay hoay thu xếp
hành lư cá nhân, tôi có thể lắng nghe được một nỗi rộn ră kỳ thú đang rung
chuyển trong tận cùng tâm thức ḿnh.
Tháng cuối
cùng tôi sắp rời Nha Trang, thầy Thông Chánh đề nghị thầy tôi cho tôi
được
trở về lại viện Hải Đức. Thầy tôi đồng ư. Có lẽ thầy Thông Chánh muốn tôi
được gần gũi thầy tôi để thu thập thêm kinh nghiệm, hiểu biết và nhất là tâm
lượng khoáng đạt–cái mà thầy Trừng Hùng không thể dạy được–để làm món hành
trang cần thiết cho tâm tư tôi trước khi lên đường.
Khi tôi
chào thầy Trừng Hùng để về viện, thầy ấy không muốn nh́n mặt tôi. Cũng may
có thầy Thông Chánh nói mấy lời, thầy ấy mới vui vẻ chúc mừng tôi được đi
học xa. Tôi đi th́ chùa cũng không vắng thiếu ǵ. Đă có thêm hai chú mới
vào. Một chú tên Lâm, ngang tuổi chú Thiệt, một chú tên Đạo, nhỏ hơn tôi hai
tuổi. Các chú đưa tôi ra cổng tam quan. Chú Thiệt nói nay mai chú cũng sẽ về
lại viện chờ ngày rời Nha Trang.
Cùng thầy
Thông Chánh xách hành lư xuống núi, trong tôi bỗng dưng nẩy sinh một mối tri
ân sâu đậm đối với ngôi chùa cổ bỏ lại sau lưng. Vâng, dù thế nào đi nữa,
tôi cũng không thể phủ nhận được rằng, gần sáu tháng sống ở đây, tôi cũng đă
học được khá nhiều điều hay mà nếu cứ ở viện tôi sẽ không bao giờ có được:
tôi đă biết nấu cơm và một vài món ăn đơn giản; ngoài ra, tôi c̣n học được
cách chịu đựng những bất b́nh trong cuộc sống. Như vậy, tôi không trở về
viện với hai tay không, mà trở về như kẻ tốt nghiệp một lớp huấn nhục cơ bản
nào đó. Tôi quay mặt nh́n ngôi cổ tự Linh Phong với một thoáng biết ơn.
Những ngày
sắp đi, bọn tiểu chúng tôi thật rộn ràng, lo sắp đặt, mơ tưởng đủ thứ, mà
bàn tán về nơi sắp đến cũng nhiều. Thầy Thông Chánh quê ở Đại Lộc, Quảng Nam
nên thầy biết rơ về cảnh sống ngoài ấy. Thầy kể sơ tôi nghe về những thắng
cảnh của Quảng Nam, đặc biệt là Ngũ Hành Sơn ở Non Nước. Nghe thầy kể, tôi
mê lắm. Ngũ Hành Sơn là năm ngọn núi nằm sát bờ biển. Nội nghe chừng ấy tôi đă thấy trong ḷng xao xuyến, bồi hồi. Nhưng một thầy học tăng
khác cũng quê Quảng Nam, biết rơ nơi tôi sắp đến, đă nói rằng:
“Ôi chà,
cái xứ đó các chú đến th́ chỉ bốc cát mà ăn thôi. Đất đai cằn cỗi, cỏ mọc
không lên. Khổ tới nơi rồi các chú ơi! Ai lại chọn sa mạc mà làm Phật học
viện bao giờ!”
Thầy Thông
Chánh cười nói:
“Thầy nói
phóng đại quá làm các chú sợ. Hồi xưa khác, bây giờ khác chứ! Có chỗ học
được là tốt rồi, phải không?”
Tôi không
trả lời các thầy. Nhưng trong ḷng tôi quả nhiên là không sợ hăi sự khổ
nhọc. Dường như sự khổ nhọc khó khăn ở một mặt nào đó cũng có dáng vẻ lôi
cuốn mê hoặc của nó. Chẳng biết tôi cảm nhận được điều đó từ lúc nào. Phải
chăng từ mấy tháng sống ở chùa Linh Phong? Chẳng rơ. Chỉ thấy rằng tôi rất
tự tin khi hướng về vùng đất mà người ta mô tả là cằn khô, hiu quạnh đó.
Ngày cuối
cùng ở Nha Trang, tôi về thăm gia đ́nh. Tôi ở lại ăn cơm chay với ba mẹ tôi
hôm ấy. Mẹ tôi đă mua sắm thứ này thứ nọ cho tôi mang theo ra xứ Quảng.
Nhưng tôi chỉ muốn mang theo một va-li hành lư thật gọn nên đă bỏ lại bớt
những vật dụng mẹ tôi sắm. Mẹ c̣n dúi tôi một phong b́ đựng tiền nữa. Tôi
không nhận. Lâu nay tôi vẫn khư khư cho rằng đă xuất gia rồi th́ không những
không phụ thuộc gia đ́nh về mặt t́nh cảm mà cũng không làm phiền gia đ́nh về
mặt tài chánh nữa. Huống chi đă gần hai năm quen với nếp sống vốn không có
nhiều nhu cầu trong cửa chùa, tôi không thấy cần thiết phải có tiền mang
theo. Tôi cũng nghĩ rằng nếu mẹ giữ lại số tiền ấy th́ cũng đỡ nhọc cho mẹ,
cho gia đ́nh phần nào hay phần nấy. Tôi nhét cái phong b́ lại trên tay mẹ.
Mẹ tôi nói:
“Sao vậy?
Con mang theo để lỡ có khi cần mua sách hay thứ ǵ cần thiết chứ?”
“Con đă sắm
đầy đủ hết rồi. Tiền này me cất đi. Viện cũng có cho tiền tụi con đó me.”
Tôi nói vậy
thôi chứ viện đâu có cho tiền bạc ǵ. Mẹ tôi cầm cái phong b́ trên tay mà
mặt buồn rười rượi. Lúc ấy tôi chưa hiểu được nỗi buồn đó của mẹ. Tôi cứ
nghĩ tôi không nhận tiền th́ mẹ đỡ tốn, mẹ phải vui. Vậy mà mẹ lại buồn. Đến
khi từ giă gia đ́nh để trở về viện, mẹ tôi đưa tôi cái túi xách nhỏ có đựng
vài món của mẹ mua cho tôi mang theo; tôi nh́n lại thấy chẳng có ǵ nhiều,
v́ tôi đă bỏ lại hơn một nửa. Gói đồ quá ít cho một đứa con đi xa, có lẽ đă
làm mẹ áy náy, không yên ḷng. Ba tôi ôm hôn tôi, rồi nắn nắn đôi vai tôi
như ông vẫn thường làm vậy với các con. Mấy đứa em tôi cũng chạy đến nắm tay
tôi lắc lắc. Một đứa nhón lên hôn má tôi. Riêng mẹ tôi từ lúc tôi vào chùa
rồi, bà không c̣n biểu lộ t́nh mẫu tử của bà theo cung cách xúc chạm như thế
nữa. Mẹ chỉ bước theo tôi, đưa tôi ra cửa. Ngay lúc dó tôi mới giật ḿnh
biết rằng kể từ khi tôi xuất gia, mẹ đă mất cơ hội để chăm sóc tôi tận t́nh
như đă chăm sóc anh chị em tôi ở nhà. Bây giờ tôi lại đi xa, mẹ c̣n khó có
cơ hội ấy hơn. Thực ra, nuôi con th́ phải tốn kém v́ con. Đứa con mà không
bao giờ xin tiền, làm nũng, hay đ̣i hỏi mẹ chăm sóc, th́ không phải là đứa
con ngoan. Đó là đứa con bất b́nh thường, chặn đứng nguồn thương yêu đang
tuôn chảy bất tận từ mẹ. Sự thương yêu của mẹ là phải có chăm sóc, tưng tiu,
cho quà, hao tốn. Mẹ cho con được cái chi mẹ sung sướng lắm, dù sự cho đó
làm tốn kém túi tiền của mẹ. Hơn cả năm nay, mẹ tôi đâu mua sắm được ǵ
cho tôi, v́ ở chùa đă lo hết rồi, mà cũng v́ tôi không bao giờ chịu đ̣i quà
hay xin xỏ ǵ nơi mẹ cả. Bây giờ tôi đi xa, mẹ túm vén một ít tiền cho tôi,
tôi cũng từ chối luôn. Vậy là tôi chẳng thương, chẳng hiểu mẹ rồi. Mẹ muốn
được tốn kém chút ǵ đó cho tôi mà. Tôi đến ngang cửa rồi th́ quay lại, nói
nhỏ với mẹ:
“Me cho con
tiền đi. Chắc có khi con cần tới.”
“Phải rồi,
con nên đem theo tiền. Dù viện cho rồi con cũng
nên mang thêm để rủi khi bệnh hoạn
đau ốm nữa, đâu có me hay có thầy bên cạnh để lo cho con.”
Mẹ tôi vui
mừng đưa ngay cái phong b́ đựng tiền cho tôi. Tôi thấy rơ là mẹ sung sướng
hơn lúc năy nhiều. Thấy mẹ sung sướng đưa tiền cho ḿnh, tôi ứa nước mắt.
Nếu không nhận số tiền đó của mẹ, chắc là một ngày nào đó, tôi sẽ ân hận,
đau khổ v́ đă không chịu làm nũng, ṿi quà để chứng tỏ ḿnh là một đứa con
của mẹ.
Tôi về đến
viện vào giờ cơm. Tính xuống bếp lấy phần cơm của ḿnh th́ thầy Thông Chánh
đến kéo tôi đi, nói rằng:
“Để bụng
đói đi, đừng ăn. Tối nay ḿnh ăn món đặc biệt để đăi chú mi lên đường.”
Rồi tôi
theo thầy ấy đi dạo núi, qua Kim Thân Phật Tổ để ngắm biển và phố Nha Trang
lúc hoàng hôn. Biển Nha Trang nh́n xa chỉ thấy một vệt xanh dài bất động và
tĩnh lặng. Âm thanh của sóng nước không vọng đến nơi chúng tôi ngồi được,
nhưng gió biển th́ lồng lộng thốc đến từng cơn. Từ đồi cao này, chúng tôi
cũng chỉ thấy những dăy phố, những ṭa nhà cao vươn lên trong im lặng. Bao
náo nhiệt của phố thị đều bị bỏ lại bên
dưới. Người ta đă nh́n ngắm Nha
Trang trong vẻ động, ít có ai ngắm được vẻ tĩnh của nó như chúng tôi trên
đỉnh đồi này. Trong tĩnh lặng, không gian trở nên mênh mông hơn. Trong mênh
mông, cái đẹp trở nên tuyệt hảo hơn. Nhưng dù nh́n từ xa hay gần, dù trong
vẻ tĩnh hay vẻ động, cái bao la bát ngát của biển cũng luôn cuốn hút hay
khích động con người lao vào cuộc t́m hiểu cái vô tận của vũ trụ hay cái sâu
thẳm của thế giới tâm linh. Cứ nh́n biển, nh́n trời là ḷng tôi xao động,
muốn phóng lên, muốn lao vào đến chỗ tận cùng bờ mé của chúng.
Trời chưa
tắt nắng hẳn các thuyền chài đă lo thắp đèn lên. Những con thuyền nhấp nhô
theo sóng nước khiến cho các ngọn đèn lúc ẩn lúc hiện, lúc sáng lúc nḥa,
như những v́ sao rơi xuống mặt biển. Trời càng tối, đèn thắp lên càng nhiều,
cơ hồ giăng khắp mặt nước, kéo một vạch ngang vàng chóa phân chia góc biển
với chân trời. Nếu không có chuỗi đèn chài đó, hẳn người ta sẽ không phân
định được đâu là ranh giới của biển và trời trong màn đêm dày đặc kia.
Rời Kim
Thân về viện, ḷng tôi nôn nả đánh nhịp theo bước chân. Tôi biết ḿnh sắp
rời khung cảnh nên thơ này rồi. Vừa tiếc nuối, vừa hăm hở muốn đi xa, tim
tôi như bấn loạn từng lúc. Tôi biết sẽ lâu lắm tôi mới có thể t́m lại được
những giây phút êm đềm thú vị như hôm nay. Ở Hội An cũng có biển, cửa Đại,
thầy Thông Chánh cho tôi biết như vậy; nhưng chắc chắn Phật học viện Quảng
Nam không nằm ở trên núi như viện Hải Đức và Kim Thân Phật Tổ.
Hôm qua đă
có một tiệc nhỏ để tiễn đưa chúng tôi lên đường, do các chú trong lớp học tổ
chức. Hôm nay, thầy Thông Chánh đăi tôi. Tôi khá đói bụng sau khi qua Kim
Thân Phật Tổ để ngắm biển với thầy. Về tới viện, thầy bảo tôi
ngồi chờ nơi tháp chuông cũ để thầy xuống bếp lấy thức ăn. Nơi đây, hai năm
trước, vào ngày đầu tiên xuất gia, tôi và hai chú Dũng, Sung, hái trộm thanh
long… Tôi ngồi yên một lúc, bỗng thấy trong ḷng quặn lên một mối thương tâm
đối với Sung và Dũng. Sung bây giờ không c̣n ở chùa nữa, c̣n Dũng th́
không được thầy quản chúng cho phép đi học xa. Các chú đều xuất gia trước
tôi nhưng chú nào cũng thiệt tḥi hơn tôi cả. Vậy ra, trong chuyện xuất gia,
cũng có sự may mắn và bất hạnh nữa.
Đâu chừng
mười phút sau, thầy Thông Chánh trở lại với một giỏ xách nhỏ. Không cần bàn
ghế hay chén bát ǵ, chúng tôi ngồi ăn tại tháp chuông cho mát. Thức ăn đơn
giản nhưng khá ngon miệng: bánh ḿ nhét đậu hủ kho. Tôi hỏi ở đâu thầy có
món đậu kho ngon vậy. Thầy nói thầy đă gởi tiền nhờ d́ Bảy dưới bếp mua đậu
để làm món đó, c̣n bánh ḿ th́ mua ở ḷ bánh Tân An gần Ty Thông Tin nên
bánh gịn thơm, ăn rất ngon. Thầy một ổ lớn, tôi một ổ lớn, xé ổ bánh bằng
tay rồi cũng bằng tay, bốc đậu hủ bỏ vào, tiện lợi, khỏi cần muỗng đũa chi
cho mệt. Hai thầy tṛ vừa ăn vừa tṛ chuyện dưới bóng trăng mờ. Nước uống
th́ có một ca nước đậu xanh nấu để bên cạnh. Món này không kể đến trong thực
đơn mà thầy ấy đăi tôi, v́ từ lúc về viện, tối nào tôi và thầy Thông Chánh
cũng uống nước đậu xanh này cho giải nhiệt. Xong món bánh ḿ th́ tới món kẹo
mè xửng. Tôi ăn bánh ḿ rất ngon miệng nhưng tới món kẹo đáng ra là phải
ngọt ngào trơn tuột này th́ tôi đâm nghẹn nơi cổ họng. Tôi biết thầy Thông
Chánh không có tiền để đăi tôi thịnh soạn hơn. Những món thầy đăi chắc là
cũng cố gắng lắm mới có được. Làm học tăng ở viện Hải Đức, ngoài ba bữa cơm
hàng ngày, mỗi năm được phân phát một ít tiền vào dịp lễ Vu Lan, dịp Tết,
c̣n ngoài ra đều tự túc. Có người được gia đ́nh tiếp tế thêm mới đủ tiền mua
sách vở. Gia đ́nh thầy Thông Chánh ở tận Quảng Nam, thầy lại không thích nhờ
vả đến. Như vậy, bữa ăn đơn sơ cuối cùng thầy đăi tôi, chắc cũng dốc gần hết
túi tiền của thầy rồi. Thương quư và xúc động trước tấm chân t́nh của thầy,
tôi ứa lệ. Trong bóng tối dật dờ của mảnh trăng non, thầy ấy không biết tôi
khóc. Thầy vẫn cười nói. Chưa bao giờ tôi thấy thầy ấy buồn, ngay cả vào lúc
sắp chia tay như bây giờ.
Trước khi
chia tay ai về pḥng nấy, thầy Thông Chánh nhắc tôi xuống lạy thầy bổn sư
trước giờ tọa thiền và chỉ tịnh v́ sáng mai tôi phải lên đường sớm, có thể
không có cơ hội để nghe thầy bổn sư chỉ dạy lần chót. Tôi xuống pḥng mặc áo
tràng vào, rồi đến gơ cửa pḥng thầy. Thầy tôi đang ngồi ở bàn viết. Tôi vào
lạy rồi chắp tay thưa:
“Bạch thầy,
ngày mai con đi học xa, xin thầy chỉ bảo con.”
Tôi chỉ nói
được mấy lời ngắn ngủi như vậy. Thầy tôi gật gù nói:
“Thượng Tọa
Chơn Phát, Giám viện Phật học viện Quảng Nam khi xưa là bạn học của thầy.
Thầy ấy rất giỏi, giới luật nghiêm minh, xứng đáng là minh sư cho đồ chúng
noi theo mà tu học. Xa thầy, con phải biết nương học thầy ấy th́ hạnh kiểm
mới toàn vẹn, học lực mới tiến xa. Xem thầy ấy như thầy của con vậy. Nhớ
chưa? C̣n nữa, mấy anh em cùng đi với nhau, phải giúp đỡ đùm bọc nhau, nhắc
nhở nhau tu học…”
Tôi vâng dạ
rồi đảnh lễ thầy ba lạy. Khi tôi lui ra đến cửa, thầy gọi lại, nói:
“Chuyện tu
tập cũng giống như học hành, không tiến tức là lùi.”
Tôi lại
vâng dạ rồi xá thầy, lui ra, nhưng thầy đứng dậy, bước theo tôi đến cửa
pḥng, xoa đầu tôi, nói:
“Phải tiến
thẳng về phía trước, đừng quay lại. Quanh quẩn măi bên thầy th́ không bao
giờ sáng mắt ra được.”
Tối đó ngủ
chung pḥng với các chú tiểu, tôi chợp mắt không được, cứ nhớ măi những lời
thầy dặn ḍ. Chú Sáng cũng không ngủ được, thức đêm tṛ chuyện với thầy
Thông Nghĩa ở hiên chánh điện. Thầy Thông Nghĩa là huynh đệ đồng sư của thầy
Thông Chánh, thương và kèm dạy cho Sáng y như thầy Thông Chánh đă kèm dạy
tôi. Chú Sương, chú Thiệt th́ ngủ ngon lành, vô tư như chẳng ǵ xảy đến.
Tôi nằm
trăn trở măi đến ba giờ rưỡi khuya, khi tiếng kẻng báo chúng gơ vang từ lối
trai đường. Sau ba câu niệm Phật lớn tiếng cùng cả trăm người trên viện, tôi
rời giường đi rửa mặt rồi vào mặc áo, chuẩn bị lên đường. Thầy Thông Chánh
có mặt ngay khi tôi đang xách va-li tiến về hướng Tổ đường. Thầy xách va-li
cho tôi, bảo tôi vào pḥng thầy bổn sư chào từ giă. Các chú Sáng, Sướng,
Thiệt vẫn c̣n lăng xăng thu xếp đồ đạc trong pḥng. Tôi vào một ḿnh. Thầy
tôi vừa tọa thiền xong, đang ngồi ở bàn viết. Tôi vào th́ thầy trao cho một
phong b́, nói:
“Thầy cho
con để mua sách vở học. Khi nào cần ǵ th́ viết thư về để thầy gởi
thêm. Nhớ lời thầy dặn, dù ở đâu cũng phải nương những vị minh sư mà tu học,
không theo tà sư hay bạn bè xấu.”
Tôi xúc
động nhưng kềm chế, không dám biểu lộ. Thầy tôi không thích con trai mà ủy
mị. Đă có lần thầy trách tôi mềm yếu như con gái, cho là tôi bị ảnh hưởng từ
các tiểu ni hay các sư cô trong thời gian theo học kinh và tụng kinh ở chùa
sư nữ. Lạy thầy xong là tôi lui ra ngay. Thầy bước theo, đưa tôi ra ngoài
pḥng khách, nơi đó có thầy Thông Chánh đứng chờ.
Viện thuê
bao nguyên một chiếc xe đ̣ chở chúng tôi đi từ Nha Trang ra tận Phật học
viện. Nhưng xe vào đến viện Hải Đức rất bất tiện, v́ vậy địa điểm được chọn
để chúng tôi tập trung là chùa Tỉnh Hội. Bảy chú từ Phật học viện Linh Sơn
cũng đi xe lam từ Cầu Dứa xuống. Lớp tôi th́ bốn người ở viện Hải Đức, một
người ở chùa Phước Điền cùng đi bộ đến chùa Tỉnh Hội. Mạnh ai nấy đi, miễn
sao đến trước 6 giờ sáng là được. Thầy Thông Chánh xách hành lư đưa tôi đi
bằng con đường Hoàng hôn quen thuộc. Thầy đưa tôi đến tận xe, leo lên ngồi
với tôi một lúc.
Trên xe
cũng náo nhiệt lắm, có mười hai chú tiểu cùng một số người thân đưa đón thôi
mà ồn như cái chợ. Thân nhân các chú đến đó, dặn ḍ, khuyên nhủ, khóc lóc
cũng có. Tôi chỉ có thầy Thông Chánh như là người thân vào giây phút chia
tay đó. Thầy cứ ngồi cười, lâu lâu nắm tay tôi lắc lắc. Thầy vẫn vậy, không
biết buồn là ǵ.
Đến giờ xe
sắp chạy bỗng thấy mẹ tôi xuất hiện. Tôi không kịp nói ǵ với mẹ, chỉ ngồi
trên xe, nh́n bà từ khung cửa sổ. Thầy Thông Chánh chạy đến bắt tay tôi lần
cuối trước khi xe chạy. Rồi thầy đứng lại gần chỗ mẹ tôi và những bà mẹ của
những chú tiểu khác. T́nh huynh đệ giữa tôi và thầy ấy đă được biểu lộ bằng
một cái xiết tay. Nhưng t́nh mẫu tử th́ không. Mẹ tôi chỉ đứng nh́n theo,
rồi đưa một tay lên vẫy. Tôi đưa tay vẫy lại. Bóng mẹ và những người đưa
tiễn nḥa dần trong màn sương sớm.