CHƯƠNG MƯỜI
BA
Hồi
chưa xuất gia, tôi có khá nhiều bạn học chung trường, chung lớp. Nhưng giữa
tôi với những người bạn ấy, nếu có quen và thân nhau th́ cũng chỉ là cái
thân thiết hời hợt của những đứa con nít. Tôi hăy c̣n nhớ tên, nhớ mặt những
người bạn thân từ tiểu học Sinh Trung đến trung học Vơ Tánh. Từ khi xuất gia
rồi, tôi thấy giữa tôi và họ tự dưng lại có một khoảng cách thật lớn, đến
nỗi không c̣n ǵ để nói với nhau nữa nếu có cơ hội giáp mặt.
Ngày
tôi c̣n ở viện Hải Đức, các bạn học chung lớp với tôi ở trường Vơ Tánh như
Đức, Rạng, Dũng, Trung... có t́m thăm tôi. Lúc ấy thầy tôi đang bệnh nặng,
tôi đang túc trực bên thầy suốt ngày đêm v́ tôi là thị giả. Nghe có bạn t́m
gặp, tôi cũng không dám rời thầy để ra tiếp. Bắt các bạn phải chờ đợi thật
lâu, tôi mới nhờ chú Sáng trực hầu bên thầy mà ra ngoài. Gặp các bạn, niềm
vui trong tôi theo phản xạ tự nhiên đă lóe sáng lên nhưng rồi lại lặn mất
ngay sau đó, cuối cùng chỉ c̣n là sự bỡ ngỡ. Tôi đứng bên các bạn mà e lệ
như đứa con gái v́ cách ăn mặc và cái chỏm ngồ ngộ trên đầu. H́nh thức ấy
tôi không thấy mắc cỡ trước bất cứ người lạ nào, nhưng lại thấy kỳ cục làm
sao trước mặt các bạn thân cũ. Các bạn hỏi thăm tôi đôi điều, tôi trả lời
cho xong rồi lặng thinh. T́nh bạn không mất nhưng thật là khó gần lại như
xưa. Tôi nói thực với các bạn rằng tôi phải trở vào pḥng thầy. Các bạn tôi
thông cảm, từ giă mà về. Có lẽ các bạn tôi không chấp trách tôi chuyện đó,
nhưng nhiều năm sau, tôi vẫn không sao quên được buổi chiều mà các bạn lên
núi t́m thăm: tôi đă không tiếp được họ b́nh thường trong t́nh thâm giao của
những ngày xưa cũ.
Bây giờ
ở trong chùa, nhất là trong mùa an cư kiết hạ và giới đàn tổ chức tại Phật
học viện vừa qua, tôi có thêm rất nhiều bạn bè từ các nơi tựu về. Có nhiều
người bạn cùng trang lứa tôi, nhưng cũng có người đáng tuổi anh tôi. T́nh
bạn đạo là thứ t́nh cảm lạ lắm. Nó bền chặt mà không đ̣i hỏi phải có sự gắn
bó lâu dài qua thời gian hay hoàn cảnh. Nó cũng không bùng lên nồng nhiệt
hăm hở nơi những phút đầu để rồi phai nhạt dần về sau. Nó đến lặng lẽ như
không hề có. Nó xa biền biệt mà chẳng hề không. Nó thấm. Đúng là thấm như
sương mù. Trong bài văn Cảnh Sách của Tổ Qui Sơn, tôi nhớ có câu: “Thân
cận thiện hữu, như vụ lộ trung hành, tuy bất thấp y, thời thời hữu nhuận.”
Nghĩa là, gần gũi bạn hiền cũng giống như đi trong sương mù; tuy không ướt
áo ngay nhưng dần dần cũng nhuần thấm. Chúng tôi có thể không ở chung một
chùa, không học chung một lớp, không thọ giới một năm, không cầu pháp một
thầy, không cùng xứ sở, không cùng thời gian sinh ra... nhưng với chiếc áo
nâu đơn sơ ấy, với cái đầu nửa tháng cạo một lần ấy, chúng tôi vừa chắp tay
chào nhau đă thấy người kia là bạn đạo của ḿnh với bao niềm thông cảm.
Người bạn đạo ấy đă cùng ta xa ĺa mái ấm gia đ́nh, cùng ta dấn thân vào cửa
thiền, chịu đựng bao thử thách; sống đời chay tịnh thanh cao, thiếu ăn thiếu
ngủ vẫn bền chí kiên gan, dốc cả tuổi thanh xuân thơ mộng vào con đường xuất
gia khó nhọc. Người bạn ấy và ta không cần phải nói nhiều với nhau, nhưng
ḍng máu trong tim hẳn đă cùng chảy chung một nhịp trong khát vọng vươn tới
giải thoát giác ngộ; bỏ tất cả, hy sinh tất cả, cũng v́ mục tiêu tối hậu ấy.
Chúng
tôi kể cho nhau những kỷ niệm vui buồn trong quăng đời hành điệu (làm chú
tiểu) của ḿnh. Chúng tôi cũng trao đổi những kinh nghiệm và kiến thức thâu
thập được từ những vị đạo sư khác nhau. Tôi thấy sự kết bạn rộng răi như vậy
rất bổ ích và chẳng bao giờ thiệt tḥi mất mát ǵ cả. Trước đây tôi đă từng
là chú tiểu khó tánh, lầm ĺ ít nói, khó ḷng để người khác bắt chuyện làm
quen. Bây giờ, tôi biết điều đó chẳng lợi ǵ cho tôi. V́ ngay cả một người
bạn khờ khạo, tưởng như bất tài vô tướng, cũng có những cái rất hay, rất dễ
thương, để ta cảm mến và học hỏi. Tôi trở nên cởi mở, vui tính hơn trong
giao tiếp. Và tôi trở thành một chú tiểu có nhiều bạn trong viện.
Sau
ngày giải hạ, những người bạn mới của tôi lục tục trở về quê quán. Và học
tăng chúng tôi bắt đầu niên khóa thứ hai. Theo sự đề nghị của thầy quản
chúng và các chúng trưởng, Thượng tọa giám viện cho bốc thăm bầu và chia lại
nhân sự của hai chúng. Tôi và Sáng vẫn ở lại trong chúng Ca Diếp, nhưng
nhiều chú khác từ chúng A Nan đă đổi qua chúng Ca Diếp, và ngược lại. Chú
Tấn là chúng trưởng cũ của chúng Ca Diếp, nay cũng là chúng trưởng, không
thay đổi ǵ, nhưng người chúng phó là chú Cung th́ nay được thay vào bởi chú
Tửu. Chú Tửu đổi từ chúng A Nan sang, vào pḥng tôi th́ được bốc thăm trúng
bàn học và giường nằm ở cuối pḥng, kế bên bàn học và giường nằm của tôi.
Chú Tửu
gốc người Huế, lớn hơn tôi chừng năm, sáu tuổi. Da chú đen ngăm ngăm, trán
vồ và cao, mắt nhỏ, mũi nhỏ, miệng vẩu, có chiều cao trung b́nh, ốm roi roi.
Chú học rất khá, cứ nh́n cái trán thông minh của chú th́ cũng đoán được phần
nào. Đă vậy chú c̣n siêng năng, chăm chỉ từ việc học đến công tác, bắt tay
vào việc nào chú cũng hết ḷng với việc nấy, đâu vào đó cho thành mới thôi.
Chú c̣n là người giỏi dang việc làm vườn, gánh nước, trồng rau, làm giàn (cho
bầu, bí, mướp, khổ qua...), cuốc đất v.v... việc nào cũng thông thạo. Cho
đến những việc cần đức tính tăn măn tỉ mỉ của đàn bà con gái, chú cũng khéo
tay chứ chẳng chịu thua. Nhất là chuyện may vá. Chú có cái áo cũ bị rách
toác mấy đường thật lớn sau lưng. Kiếm được ở đâu mấy cái áo rách của chú
nào bỏ, chú Tửu cắt một miếng vải vuông lớn, vá đắp lên cái áo rách
lưng của ḿnh. Đường may của chú trên nếp vải, đều và nhỏ như người ta sử
dụng máy may vậy. Trong viện tôi biết có nhiều chú như chú Khai, chú Tin,
chú Kha... cũng tự vá lấy quần áo bị rách, nhưng chưa chú nào khéo tay được
như chú Tửu.
Một hôm,
chiếc áo nhật b́nh của tôi bị rách toạc một đường dài trên vai. Áo nhật b́nh
là loại áo dài cài một hàng nút ở giữa từ chỗ ngực chạy xuống đến sát gấu áo;
cổ áo là một khúc vải chữ nhật nối vào áo, từ gáy kéo ṿng hai bên xuống
ngực, tạo thành hai chữ Nhật bằng nhau nên gọi là áo nhật b́nh–trong
chữ Hán, chữ nhật có nghĩa là ngày, hay mặt trời, được viết như là
một h́nh chữ nhật để đứng (tức chiều rộng th́ nằm ngang, chiều dài
th́ làm chiều cao), có một vạch chạy ngang ở giữa. Tôi có hai chiếc áo nhật
b́nh nâu trước kia cũng là màu lam, sau v́ thấy cũ và bị dính dầu ở vạt sau
nhiều quá, tôi đưa d́ vải ở đây đem nhuộm nâu dùm. Nhuộm xong, trông đẹp và
có vẻ mới, nhưng thực ra áo đă có từ lúc c̣n ở Nha Trang đến giờ nên cũng đă
mục, không chịu nổi sức nẩy nở của xương và bắp vai đang độ tăng trưởng của
tôi. Áo rách chỉ một đường thẳng ở gần chân cổ đến bắp vai chứ không kéo hai,
ba đường lộn xộn nên tôi thấy cũng không cần thiết phải vá lại. Hơn nữa, tôi
đâu có biết khâu vá ǵ. Mỗi lúc đến trai đường để dùng bữa, tôi đều mặc
chiếc áo nhật b́nh nâu này (c̣n áo nhật b́nh lam th́ dùng để đi học, đồng
phục của viện được qui định như vậy). Đâu khoảng tuần sau, chỗ rách không
chịu làm chữ I nữa mà rẽ sang một đường khác, tạo thành chữ L. Vậy th́ coi
có vẻ hở hang quá, tôi bèn lấy kim tây (kim băng) cài chỗ rách lại. Vải chỗ
ấy v́ vậy mà bị nhíu, trông thô xấu, và mỗi lần tôi vươn vai, đưa tay hay cử
động mạnh th́ chỗ rách càng hoác rộng ra thêm, cái kim tây muốn rớt xuống.
Nhưng tôi cứ để vậy, chẳng biết làm sao hơn. Ngày cuối tuần, chú Tửu bảo tôi
đưa áo ấy cho chú vá giúp. Tôi ngại mất th́ giờ học bài của chú nhưng chú cứ
giành lấy rồi ngồi vá. Chú cắt bớt một miếng vải ở vạt trong, phía lưng áo
để đắp vào chỗ rách (áo nhật b́nh của tôi là loại có sáu vạt thay v́ bốn vạt;
hai vạt trong được nối với hai vạt trước và quấn quanh hai chân khi mặc vào,
hai vạt này có thể bỏ bớt để làm thành áo bốn vạt). Chú ngồi vá cho tôi đâu
khoảng nửa giờ th́ xong. Thật là khéo. Tôi ngồi gần đó nh́n chú làm việc để
học cách vá, may ra có thể tự lo lấy về sau, khỏi phải phiền ai. Thấy tôi
có ư muốn học, chú Tửu chỉ dẫn tôi cặn kẽ cách gấp và đắp miếng vải sao cho
được thẳng, gọn và ăn khớp theo chiều rách của áo; chú c̣n đưa chậm từng
đường kim cho tôi thấy. Tôi và chú bắt đầu quen và dần dần thân với nhau kể
từ hôm ấy. Chuyện vá đồ rách, tôi học được từ chú Tửu, nhưng chỉ mới áp dụng
được một lần sau này. Lần đó, vá xong, tôi đưa chú Tửu xem, chú cười rồi
tháo ra, làm lại từ đầu. Vậy là tôi chỉ mới học được trên lư thuyết, phần
thực hành chắc là chẳng bao giờ có thể làm khéo nổi. Nhưng ít ra, tôi cũng
tự tin rằng nếu chẳng có ai giúp, tôi có thể tự làm lấy, tuy không được khéo
nhưng cũng là biết rồi.
Ngoài
chuyện dạy vá đồ, chú Tửu c̣n dạy tôi gánh nước nữa. Cơ thể tôi lúc ấy trông
có vẻ mập mạnh lắm, nhưng đặt quang gánh với cặp thùng chưa có nước trên vai
đă thấy đau rêm rồi. Chú Tửu tập tôi gánh nước vào mỗi tối khi các chú khác
lo học bài. Ở viện có bốn cặp thùng dùng để tưới rau hoặc gánh nước đổ vào
các bồn nước ở bếp, ở nhà vệ sinh... Thùng bằng thiếc, được buộc cứng vào
đ̣n gánh bằng giây thừng ni-lông. Miệng thùng h́nh tṛn, chu vi rộng, đường
kính cũng phải hơn hai gang tay, nhỏ dần về phía đáy, giống như chiếc nón lá
lật ngửa; đáy nhọn, có loại thùng đáy phẳng nhưng diện tích nhỏ, không thể đặt cho
thùng đứng yên được dưới đất nếu không có người đứng giữ. Như vậy, khi đôi
thùng đầy nước đă đặt trên vai rồi th́ phải gánh luôn một mạch đến chỗ cần
đến, không nghỉ giữa chặng được. Gánh nước đổ vào bồn c̣n đỡ, đổ ào thùng
này xong, đến thùng khác; nhưng gánh nước để tưới rau th́ phải rưới nước vừa
phải và phải đều, gọn, sao cho các luống rau, khoảnh nào cũng được thấm đủ,
không thiếu nước, cũng chẳng hao nước để phải mất công gánh nhiều lần. Ban
đầu chú Tửu tập cho tôi gánh cặp thùng có dung tích nhỏ nhất trong bốn cặp,
và kéo nước từ giếng lên, chú chỉ đổ vào mỗi thùng một gàu, rồi bảo tôi gánh
đi, chú đi theo vịn nhè nhẹ. Cứ gánh như vậy đi ṿng ṿng trong vườn chùa,
khi nào mỏi th́ ghé đổ vào bồn vệ sinh; sau đó, lại ra giếng lấy nước khác.
Số nước đổ vào thùng tăng dần, tăng dần theo mỗi ngày. Mấy ngày đầu, tôi
thấy ê ẩm và đau rát cả hai vai. Đâu chừng một tuần tôi mới quen và đă gánh
được hai thùng nước đầy, rồi bỏ loại thùng nhỏ, chọn loại thùng lớn, đều
gánh được cả. Tôi c̣n tập gánh luôn cả hai vai, rồi tập chuyển quang gánh
với hai thùng đầy nước từ vai này qua vai kia mà không cần nhờ người khác đỡ
hay phải dừng chân lại, cứ vừa gánh chạy vừa hất nhẹ một cái là cái đ̣n gánh
đang đè nặng bên vai phải, đổi ngay qua vai trái, và ngược lại. Tôi trở
thành một trong những tay gánh nước “thiện chiến” của chúng Ca Diếp.
Sau chuyện gánh nước, chú Tửu c̣n tập cho tôi cuốc đất, chẻ tre, bổ củi,
trồng trọt, v.v... Một bữa đang ngồi chẻ tre để làm một giàn mướp, chú nói
với tôi rằng:
“Tôi
nghĩ ḿnh tập cho biết cách làm việc càng nhiều càng tốt, sau này vứt ḿnh ở
đâu cũng không sợ, có thể sống tự lập được. Mà tu sĩ tụi ḿnh rất cần sự tự
lập.”
Chú ấy
nói chí lư. Tôi đă không ngần ngại ǵ chuyện học việc từ nơi chú, mà chú
hướng dẫn lại tận tâm nữa nên tôi học và làm được rất nhiều việc. Có điều,
tôi chẳng biết làm sao để đáp lại sự tận tâm chỉ dẫn của chú ngoại trừ việc
giải thích một số chỗ chú chưa hiểu rơ trong bài học, bài tập của trường hay
của viện. Lúc ấy, tôi càng thấy rơ ràng hơn, sự khác nhau giữa kiến thức học
đường và kinh nghiệm cuộc sống như thế nào. Những điều tôi giải thích cho
chú Tửu trong một bài toán hay một đoạn văn chẳng hạn, h́nh như chẳng ăn
nhập ǵ đến cuộc sống thường nhật cả. Tôi như nghe được tiếng nói của chính
ḿnh phát lên từ đáy ḷng rằng: đừng bao giờ thỏa măn hay kiêu hănh với sự
hiểu biết thu lượm từ sách vở, từ học đường; tất cả những thứ ấy đều chỉ là
cặn bă rơi rớt lại của những người đi trước mà thôi.
a
Có lần
vui miệng, chú Tửu nói tôi nghe rằng các chú bên chúng A Nan (tập trung trên
hai mươi chú trong một pḥng lớn, chung dăy với pḥng học) đa phần nghịch
ngợm, lười biếng. Chú Tửu đă từng làm chúng phó, rồi làm chúng trưởng của
chúng A Nan trước đây nên nắm vững chuyện ấy. Tôi không tin cũng không được.
Mà không cần chú Tửu nói, tôi cũng đoán được phần nào nếp sinh hoạt của
chúng A Nam qua mỗi kỳ họp chúng (nửa tháng một lần, họp toàn bộ nhân sự của
viện, cả ban giám đốc lẫn học tăng). Thầy quản chúng cứ báo cáo hết chuyện
vi phạm này đến chuyện phá phách kia, mà chuyện nào cũng có người của chúng
A Nan dự vào. Chúng Ca Diếp th́ hiền ḥa chững chạc hơn, nhưng tôi nghĩ có
lẽ cũng do một phần v́ vị trí các pḥng: pḥng của chúng Ca Diếp sát pḥng
thầy quản chúng, gần pḥng thầy giám sự và chung một dăy với pḥng của
Thượng tọa giám viện; c̣n pḥng của chúng A Nan th́ cách biệt với các dăy
tăng pḥng bên trong bởi chánh điện và hai khoảng sân bên hông khu chánh
điện. Chúng A Nan ở xa quá th́ đâm ra ồn ào, nghịch ngợm vậy thôi. Nghịch
ngợm cỡ nào tôi chẳng biết, chỉ thấy mấy chú nhỏ hơn tôi một hai tuổi như
chú Ḥa, chú Khôi, chú Hưng, chú Sâm... chú nào cũng dễ thương. Gặp tôi, các
chú cười chào lịch sự, hiền khô.
Một
buổi tối cuối tuần, tôi qua thăm chúng A Nan. Ngồi chơi với chú Tánh khá lâu
mà tôi chẳng thấy có dấu hiệu ǵ là có sự ồn ào nghịch ngợm nơi chúng A Nan
này cả. Hầu hết các chú lớn lo học bài cho tuần tới, hoặc nằm đọc sách; các
chú nhỏ th́ tụm năm tụm ba nói chuyện vui vẻ với nhau, không khí chẳng khác
ǵ với không khí bên chúng Ca Diếp. Nhưng đang ngồi tṛ chuyện, bỗng nghe có
tiếng la lớn: “Rắn, rắn!” Tôi liền nghĩ ngay trong đầu rằng, có lẽ đây là
dấu hiệu để bắt đầu một tṛ chơi nghịch ngợm nào đó của chúng A Nan. Nhưng
không phải. Cả pḥng ai cũng quay nh́n về hướng chú Tịnh, người vừa lớn
tiếng báo động về con rắn. Chú Tịnh đang đứng hẳn trên giường, khoảng giữa
pḥng; mặt chú tái mét, chỉ tay vào một con rắn nhỏ, dài cỡ hai gang tay,
màu đen có khoanh trắng, vừa rớt từ mái nhà xuống. Đây là loại rắn cạp nong
cực độc miền nhiệt đới. Cả pḥng nhốn nháo hẳn lên, kẻ xô ghế, người quăng
sách, kẻ tung chăn, người bỏ chạy, trông thật buồn cười. Tôi đă ở viện Hải
Đức và chùa Linh Phong, thấy rắn không c̣n là chuyện lạ nên không thấy sợ
hăi ǵ. Rắn trên đồi Trại Thủy không hiếm, hầu như ngày nào tôi cũng bắt gặp.
Nào là rắn roi, rắn học tṛ, rắn lục, rắn cạp nong, rắn rung chuông... Tôi
c̣n nhớ chuyện chú Sung, chú Kính bắt rắn chơi ở viện Hải Đức, và trận đ̣n
phạt mà chính tôi cũng bị lây. Lúc đó, chúng tôi không bị con rắn học tṛ ấy
đe dọa. Bây giờ th́ khác, con rắn cạp nong với cái đầu tam giác trông dữ tợn
làm sao. Hơn nữa, con rắn này lại xuất hiện ban đêm (là giờ giấc mà nó có
thể trông thấy rơ nhất), ở một nơi chỉ có những ngọn đèn dầu leo lét mà lại
nằm trong một căn pḥng chật chội những bàn ghế, giường nằm, áo quần... nếu
không bắt được nó ngay th́ nguy hiểm hết sức. Nghĩ vậy, tự dưng tôi lớn
tiếng la lên:
“Bắt nó
liền kẻo nó chui xuống bàn ghế!”
Chưa ai
kịp phản ứng ǵ, con rắn đă thoắt cái, ḅ khỏi giường, rớt xuống nền đất,
trườn đi thật nhanh vào góc pḥng. Cả pḥng nhẩy nhổm, phóng lên các giường.
Chẳng ai có thể ở yên được. Nỗi nguy hiểm đem đến từ một con rắn độc dù ǵ
cũng làm cho không khí trong pḥng trở nên nhộn nhịp, linh động hơn. Các chú
nhỏ trông có vẻ lăng xăng, rộn ràng nhất. Tôi thấy rơ ràng là các chú sợ th́
ít, thích thú th́ nhiều. H́nh như các chú không muốn đời sống cứ b́nh yên
lặng lẽ măi. Trong khi các chú lớn chưa biết làm sao, các chú nhỏ đă rút mấy
cây trụ mùng để lùng bắt con rắn. Chú chúng trưởng chúng A Nan la lên:
“Đừng
có sát sanh nghe!”
Chú Khôi vừa quơ cây trụ mùng xua con rắn, vừa nói:
“Đâu có
sát sanh, nhưng phải đuổi nó ra chớ!”
Chú th́
chặn đầu này, chú th́ chặn đầu kia, để lùa con rắn quay ra hướng cửa chính,
nhưng rồi con rắn lại chui khuất vào sau kẹt tủ ở góc pḥng. Thật là phiền!
Mấy chú lấy cây trụ khoèo, thọc, gơ vang trên nền đất và chân bàn, chân ghế,
vẫn chẳng thấy con rắn chường mặt ra. Nó đă thu ḿnh nấp sau kẹt tủ nào
chẳng ai đoán được. Chú chúng trưởng chúng A Nan chỉ huy cả pḥng kéo các
giường nằm sang một bên, rồi xê dịch các tủ đứng cũng như bàn ghế ra, không
cho dựa sát vách nữa. Các ngọn đèn dầu lớn cũng được thắp lên để tập trung
ánh sáng vào việc t́m bắt con rắn. Tủ, bàn xê dịch tới đâu, đèn rọi đến đó.
Đang rọi t́m con rắn bỗng nghe kẻng báo trước giờ niệm Phật buổi tối (kẻng
này được gơ ba tiếng trước kẻng hô canh niệm Phật chừng mười đến mười lăm
phút. Khi nghe kẻng này, mọi người trong chùa viện phải tự động bỏ hết mọi
việc, lo làm vệ sinh cá nhân để lên giường niệm Phật, v́ sau giờ niệm Phật
là giờ ngủ, không ai được phép nói chuyện ồn ào hay đi qua đi lại nữa). Vậy
mà con rắn vẫn chưa t́m ra được. Tôi vừa lo lắng cho các chú ở đây mà cũng
muốn được chia sẻ với các chú về chuyện con rắn thực nguy hiểm này nên không
màng chuyện quay trở về pḥng của chúng Ca Diếp. Tôi cũng lăng xăng sục sạo
t́m kiếm con rắn, phụ giúp các chú khiêng giường khiêng tủ. Khi kẻng hô canh
gióng lên ở hồi thứ nhất, chúng tôi vẫn chưa t́m được con rắn. Đến hồi thứ
hai, con rắn đă được phát hiện. Một chú lấy cây lùa nó ḅ đi, chú khác đón
sẵn ở trước lấy cây đè chặn lên khoảng đầu nó, rồi t́m thế hất nó vào cái
bao cát, túm miệng bao lại, mang chạy tuốt ngoài bờ rào, thả cho nó đi.
Trong khi ấy, các chú c̣n lại trong pḥng lo kéo bàn ghế, tủ giường lại vị
trí cũ để ngồi niệm Phật. Hồi kẻng thứ ba đă dứt rồi mà giường nằm chưa sắp
đặt lại xong. Đến khi ba câu niệm Phật cho cả viện cùng hô vang lên, chuyện
dọn dẹp mới xong xuôi. Chúng tôi vừa hô to câu niệm Phật, vừa vội vàng nhảy
phóc lên giường nằm của ḿnh để ngồi niệm Phật. Nhưng tôi làm ǵ có chỗ để
ngồi! Mỗi người một giường, tôi là người của chúng Ca Diếp sang chơi lấy
giường đâu mà ngồi thiền hay niệm Phật. Chỉ một chốc nữa, vị thầy hô canh sẽ
đi tuần sang đây, kiểm tra từng giường. Giường nào trống, chủ nhân chiếc
giường sẽ bị phạt. Nhưng trường hợp này không phải là sợ giường trống, mà sợ
giường dư người mà thôi. Giường nào cũng một người, tự dưng có một giường
hai người th́ đáng lưu ư lắm chứ. Ai vào đây? Tôi đang luưnh quưnh chưa nghĩ
ra được cách nào để khỏi bị thầy tuần chúng phạt th́ chú Đồng bảo tôi cứ
ngồi lên giường của chú. Tôi hỏi nhỏ bằng hơi gió trong miệng:
“Vậy
chú ngồi đâu?”
Chú
không trả lời mà chỉ “xuỵt” một tiếng. Té ra thầy tuần chúng đă đến hành
lang, đi ngang cửa số. Tôi im luôn. C̣n chú Đồng th́ chui tọt xuống dưới
giường. Tôi thực tức cười mà cũng vừa ái ngại khi để chú chui xuống giường
trong khi ḿnh ngồi ở trên. Tất nhiên chú ấy nhường chỗ cho tôi và chui
xuống giường là để tôi khỏi bị phạt mà thôi. Nằm dưới giường th́ chắc là
không phải để niệm Phật rồi. C̣n tôi ngồi trên giường cũng niệm Phật hay
thiền định ǵ đâu! Ḷng tôi bất an, chẳng sao định tâm nổi. Tôi ngồi đó mà
cứ nghĩ đến người bạn dưới gầm giường. Tuy học chung lớp, sống chung dưới
một mái viện, tôi và chú Đồng ít có dịp tṛ chuyện hoặc có cơ hội nào để kết
thân. Nhưng gặp cảnh ngộ đặc biệt này, chú ấy đă tỏ ra là người bạn tốt, sẵn
sàng bao che cho một “người khách” từ chúng khác đến thăm. Điều làm tôi suy
nghĩ là tại sao các bạn tôi có những phản ứng rất bén nhạy mà tôi không tài
nào có được. Cách phản ứng của chú Đồng thật buồn cười nhưng nhanh lẹ và hữu
hiệu làm sao. Chẳng biết bao giờ tôi mới có được sự nhanh nhẹn, mau mắn ấy.
Đang
ngồi suy nghĩ về chú Đồng, bỗng nghe “xoảng” một cái, rồi tiếng lon sắt, lon
nhôm ở đâu rơi xuống nền xi măng kêu lổn cổn loảng xoảng. Có tiếng thầy tuần
chúng bước nhanh ra khỏi pḥng, đứng ngoài hành lang nói lớn trước khi bỏ
đi:
“Cái
chúng A Nan này quá sức đó nghe! Ngày mai tôi tŕnh thầy giám viện phạt hết
cả chúng cho xem!”
Đáp lại
lời thầy tuần chúng là những tiếng cười khúc khích từ nhiều giường. Tôi
chẳng cười nổi chuyện ấy, mà cũng chẳng hiểu chuyện ǵ vừa xảy ra. Khi hồi
kẻng báo giờ chỉ tịnh gióng lên, tiếng cười trong pḥng như được nước, vỡ ̣a
ra. Chú Đồng từ dưới giường chui lên cũng cười lớn. Tôi cám ơn chú để quay
trở về chúng Ca Diếp. Lúc ấy tôi mới nghe các chú trong chúng A Nan nói với
nhau về chuyện thầy tuần chúng khi năy. Đầu tiên là chú chúng trưởng, chú
hỏi:
“Hồi
năy chú nào làm ǵ để thầy tuần chúng đ̣i phạt cả chúng vậy?”
“Có ǵ
đâu. Tại thầy tuần chúng bị vấp mấy cái lon làm ồn, không cho chúng ḿnh
định tâm niệm Phật đó mà!”
“Nói
bậy. Chú nào giăng giây cho thầy ấy vấp chứ ǵ?”
“Ai mà
biết!”
“Lon
của ai vậy? Lon đâu rồi, đưa coi thử?”
“Có
thấy lon liếc ǵ đâu! Ai dẹp hết rồi.”
“Thiệt
t́nh mấy chú này, dám chọc luôn cả thầy tuần chúng nữa. Rồi ngày mai bị phạt
hết cả bọn, có vui ǵ chứ. Chú nào làm dám đứng ra chịu không vậy? Để cả
chúng mang tiếng sao được chớ!”
Chẳng
biết chú chúng trưởng chúng A Nan có t́m ra thủ phạm không, và chẳng biết có
ai chịu đứng ra nhận tội không. Tôi len lén trở về pḥng ḿnh v́ đang giờ
chỉ tịnh, nội qui của viện không cho phép học tăng qua lại ngoại trừ trường
hợp phải đến nhà vệ sinh. Lần đầu tiên từ ngày đến Phật học viện Quảng Nam,
tôi đă vi phạm nội quy theo kiểu này. Cũng may là chẳng ai phát giác. Vào
pḥng, trong bóng đêm mờ mờ, tôi thấy các chú trong chúng Ca Diếp đă nằm yên
trên giường cả rồi. Không khí im vắng, chẳng một tiếng động. Chúng Ca Diếp
là vậy: nề nếp, quy củ. Tôi định lên giường nằm của ḿnh th́ thấy có dáng
một người đang ngồi im xếp bằng trên đó. Tôi thắc mắc trong bụng: “Ai lại
ngồi thiền trên giường của ḿnh vậy ḱa?” Và v́ tôn trọng một người đang tọa
thiền, tôi chẳng dám lay gọi người ấy để lấy lại chỗ nằm. Tôi đứng im bên
giường, nh́n quanh pḥng xem c̣n giường nào trông không. Chẳng giường nào
trống cả. Điều này chứng tỏ rằng người ngồi trên giường không thuộc chúng Ca
Diếp, có thể là một người khách mới tới mà tôi chẳng biết. Tôi đang ngập
ngừng đứng im trong bóng tối bỗng nghe tiếng chú Tửu ở giường kế bên “xuỵt,
xuỵt,” ngoắc tôi đến giường của chú. Tôi bước nhẹ đến. Chú Tửu hỏi nhỏ:
“Cha!
Chú đi đâu năy giờ không chịu về niệm Phật?”
“Tôi
qua chúng A Nan chơi, về không kịp. Ai ngồi trên giường tôi vậy?”
“Có ai
đâu. Tôi sợ chú bị phạt nên lấy mền gối của chú dựng đứng lên giả như có
người ngồi đó.”
“Vậy hả!
Năy giờ cứ tưởng có khách tăng! Thôi, cám ơn chú nghe. Ḿnh đi ngủ kẻo bị
phạt đó.”
Tôi dẹp
“thằng tôi" giả trên giường để “thằng tôi" thật nằm xuống ngủ. Quảng Nam
trời rét vào mùa đông. Mỗi khi ngồi thiền, chúng tôi thường trùm mền kín như
đang ngồi với nồi nước lá xông khi bị cảm vậy. Cho nên chú Tửu lấy mền gối
giả làm người ngồi thiền cũng không bị phát giác. Vả lại, thầy tuần chúng
không bao giờ ngờ rằng một chú có hạnh kiểm tốt như tôi lại có thể vắng mặt
khi ngồi thiền cả. Người ta thường bất công với những người có hạnh kiểm xấu.
Nếu lỡ xấu th́ cứ xấu măi, cứ bị phạt măi. C̣n người có hạnh kiểm tốt th́ lỡ
có phạm lỗi, cũng có thể được tha thứ, bỏ qua. Tôi biết thầy tuần chúng có
phát giác được tôi vắng mặt cũng hỏi tôi một vài câu rồi cười thôi chứ chẳng
phạt vạ ǵ. Tôi nhắm mắt dỗ giấc ngủ nhưng không ngủ được. Thường thường tôi
ngủ rất dễ, hôm nay cứ nằm lăn qua lăn lại măi.
Tôi nhớ
lại cảnh đuổi bắt rắn khi năy bên pḥng chúng A Nan. Trong cảnh xôn xao nhộn
nhịp, vừa sợ vừa vui đó, có mang một ư nghĩa độc đáo mà tôi từng đọc thấy
trong kinh Di Giáo. Trong kinh ấy, có một đoạn đức Phật dạy các đệ tử
xuất gia của ngài với ư rằng: “Này các thầy tỳ kheo, phải nghĩ đến ngọn
lửa vô thường đốt cháy thế gian mà sớm cầu giải thoát, chớ nên ngủ nghỉ
nhiều... Phiền năo c̣n ngủ ở trong tâm các thầy chẳng khác nào
con rắn cực độc đang ở ngay trong tịnh thất của
ḿnh mà lại lo
ngủ nghỉ vậy. Phải mau mau dùng móc sắt tŕ giới để xua đuổi nó ra khỏi nhà
rồi mới có thể yên tâm mà ngủ nghỉ!” Lời dạy và h́nh ảnh ví dụ ấy trở
nên rơ ràng hơn qua chuyện con rắn chui trốn trong pḥng chúng A Nan khi năy.
Quả nhiên là chưa đuổi nó ra th́ chẳng làm sao mà yên tâm ngồi thiền hay ngủ
nghỉ được.
Tôi
cũng nhớ lại tṛ chơi nghịch ngợm của một chú nào đó, cột mấy cái lon vào
sợi dây, giăng ngang giữa pḥng để thầy tuần chúng đi vào bị vấp phải. Rơ
ràng là tṛ chơi này nhắm vào thầy tuần chúng chứ chẳng ai khác. Tuần
chúng là chức vụ tạm thời giao cho một vị thầy nào đó đi “tuần”
tra, kiểm soát sinh hoạt của tăng “chúng.” Nhưng trường hợp đă có vị
quản chúng rồi th́ vị tuần chúng ở đây chỉ có bổn phận đi tuần tra vào giờ
tọa thiền niệm Phật. Vị tuần chúng có quyền bắt phạt những học tăng ồn ào,
đi lại hoặc không có mặt trên giường nằm của ḿnh để tọa thiền vào giờ quy
định. Học tăng mà dám “chơi khăm” thầy tuần chúng th́ quả là hết chỗ
nói, đă nghịch tới mức tột đỉnh rồi vậy. Nhưng tại sao lại có chuyện đó xảy
ra? Tại sao trước đây thầy quản chúng, thầy giám sự, cũng đă từng có trách
nhiệm đi tuần tra trong giờ niệm Phật mà chẳng thầy nào bị “hỗn” như
thầy tuần chúng hôm nay? Tôi đoán hiểu nguyên do một phần
là năm ngoái, vào giờ tọa thiền niệm Phật, thầy quản chúng và thầy giám sự
thay nhau đảm trách việc tuần tra, nhưng hai thầy này chỉ đi tuần cho có lệ:
vài tháng mới có một lần đi tuần mà có đi th́ cũng chỉ đứng ngoài cửa sổ
nh́n vào, hoặc chỉ đi ngang hành lang của các tăng pḥng, chứ không bước vào
pḥng, nh́n kỹ từng giường, từng mặt người (như thầy tuần chúng năm nay).
Vậy mà với sự tuần tra lấy lệ của hai người trước, các chúng vẫn tự động
khép ḿnh vào nội qui của thời khóa chung này. Năm nay, trong viện có thêm
một thầy đến an kiết hạ rồi sau đó ở lại viện luôn. Thầy ấy pháp danh Như
Khán. Thầy không có chức vụ ǵ trong ban giám đốc Phật học viện. Thượng tọa
giám viện cắt thầy công tác hô canh vào mỗi tối và mỗi khuya. H́nh như thấy
công tác đó hăy c̣n nhẹ quá, thầy Như Khán tự động đặt ḿnh vào trách nhiệm
“tuần chúng.” Như vậy, thay v́ t́m chỗ ngồi thiền hay niệm Phật nửa giờ rồi
đánh kẻng báo chỉ tịnh như hai vị thầy kia, thầy Như Khán lại đi ṿng ṿng,
kiểm tra các pḥng. Từ đó, có chú gọi đùa thầy là “thầy tuần chúng” (đây
là một chức vụ, nhưng trường hợp thầy ấy th́ chẳng phải, v́ thầy giám viện
chưa hề tuyên bố với đại chúng là cắt đặt chức ấy, cũng chưa tuyên bố là
giao chức ấy cho ai). Nghe gọi vậy, thầy ấy càng thích, càng sốt sắng đi
tuần tra thường xuyên và gắt gao hơn. Chúng tôi đang tọa thiền, thầy bước
vào phát tiếng sột soạt từ chiếc áo tràng rộng thầy đang mặc, lại nghe tiếng
đôi dép nhựt của thầy búng lên gót chân kêu “póc, póc.” Nhiều chú không
thích chuyện đó, cho rằng thầy làm động chúng. Có lẽ v́ vậy mà xảy ra chuyện
giăng giây cho thầy vấp, rung ngă mấy cái lon kêu rổn rảng.
Niệm
Phật và tọa thiền nửa giờ đồng hồ trước khi ngủ và nửa giờ khi mới thức giấc
vào buổi khuya, là sinh hoạt tập thể truyền thống của các tự viện Việt Nam.
Không phải chỉ một giờ đồng hồ đó là đủ, cho nên mỗi cá nhân c̣n tự t́m thêm
giờ khác trong ngày để thực tập công phu của ḿnh. Chính cái giờ mà mỗi
người tự động t́m thêm ấy mới thực sự là thời khóa quan trọng của mỗi cá
nhân, v́ có khi cần khung cảnh khác hơn là khung cảnh ngồi chung với mọi
người trong một căn pḥng với những giường chơng hay bồ đoàn gần sát nhau.
Ngồi tọa thiền hay niệm Phật chung với nhau trong một thời khóa thực ra chỉ
là sinh hoạt tập thể mang tính chất h́nh thức nhằm nâng cao tinh thần ḥa
hợp cho số đông mà thôi (chúng ḥa đồng tu trong lục ḥa, sáu nguyên
tắc để tạo sự ḥa hợp cho tập thể). Tu tập là vấn đề tự giác mà tâm lư người
Việt Nam (không giống người Trung Hoa hay Nhật Bản) cũng thích sự tự giác
hơn là những sinh hoạt có sự bó buộc, kiểm soát của người khác. Cho nên, thả
lỏng th́ họ tự động khép vào kỷ luật mà xiết chặt th́ họ lại ương ngạnh,
chống đối, muốn phá nội quy.
Nghĩ
lại chuyện mấy cái lon, tôi thấy tức cười, thấy tội nghiệp thầy tuần chúng,
mà mặt khác, cũng thấy một phần thích thú lạ kỳ trong ḷng nữa. Có lẽ ai
cũng có một lúc nào trong đời, thích chống phá hay đùa cợt với những kỷ
luật. Nói th́ nói vậy chứ tôi chưa dám vi phạm kỷ luật một cách trắng trợn ở
mái viện này. Tôi chỉ thấy thích thú về chuyện mấy cái lon, bởi v́ ở viện
vốn có kỷ luật của thời khóa tọa thiền nhưng không có cái “màn” cử
một người đi quanh, cầm cây gậy nhịp nhịp, ngó mặt từng người để kiểm soát
hay thị uy. Cái màn đó không thích hợp để áp dụng cho những tăng sĩ Việt
Nam, không thích hợp chút nào cho không khí tự giác tự nguyện của những kẻ
xuất trần. Tôi thường hănh diện về vấn đề hạnh kiểm của chính ḿnh. Từ lúc
chưa xuất gia, tôi đă có hạnh kiểm tốt trong các lớp tiểu học; xuất gia rồi,
dù có những tṛ hoang ngầm trước đây, tôi cũng đă ngoan ngoăn sửa đổi để có
được hạnh kiểm tốt nơi viện Hải Đức, và nhất là ở viện này, tôi hoàn toàn là
một chú sa di giới hạnh nghiêm ngặt, chững chạc như một người lớn (cho nên
hồi tôi c̣n để chỏm, Thượng tọa giám viện mỗi lần đi hoằng pháp đều dẫn tôi
đi theo dù tôi không phải là thị giả chính thức của Thượng tọa). Do ở chỗ
tự hào với hạnh kiểm, tôi đâm coi thường những chú cứ vi phạm nội quy, hết
chuyện này đến chuyện nọ. Nhưng bây giờ, qua chuyện giăng bẫy thầy tuần
chúng, tự dưng tôi không thấy bực bội hay khinh thường về sự phá kỷ luật của
các chú thuộc chúng A Nan nữa. Ở một khía cạnh nào đó, tôi thấy các chú ở
chúng A Nan mới thực sự là những kẻ hồn nhiên, sống gần với lứa tuổi thiếu
niên của họ nhất. Phải thừa nhận rằng trong vấn đề kỷ luật, không phải tất
cả mọi điều đều tốt đẹp và hợp lư để tuân hành nghiêm nhặt. Có những cái rất
lỗi thời, cũng như có những cái rất buồn cười. Nếu cần th́ phải đạp đổ bớt
cho đời sống nhẹ nhàng, thoải mái hơn. Chúng A Nan dám làm chuyện đó. C̣n
chúng tôi, những người của chúng Ca Diếp, chỉ là những ông cụ non, những con
cừu chỉ biết ngoan ngoăn tuân theo các qui tắc và nề nếp chứ chưa một lần đủ
can đảm để đùa giỡn với chúng.
Sáng
hôm sau, vào giờ điểm tâm, thầy tuần chúng đứng dậy tŕnh bày cùng đại chúng
sự việc xảy ra đêm qua, yêu cầu ban giám đốc xử phạt nặng cả chúng A Nan.
Chuyện kéo bàn ghế, giường tủ ồn ào để bắt con rắn dĩ nhiên là được bỏ qua;
c̣n chuyện giăng bẫy cho thầy tuần chúng vấp th́ phải phạt. Chẳng ai đứng ra
nhận trách nhiệm chuyện giăng bẫy nên cả chúng đồng ḷng chịu phạt–chắc là
cả chúng A Nan muốn bao che cho vài cá nhân nào đó về chuyện ấy; v́ nếu để
cho một cá nhân nhận lỗi th́ sự trừng phạt biết đâu là trục xuất khỏi Phật
học viện, cái đó ai mà đoán trước được! Cho nên, để cho cả chúng chịu lỗi
th́ sự trừng phạt sẽ nhẹ hơn (không lẽ trục xuất luôn cả một chúng trên hai
mươi học tăng?). Thượng tọa giám viện lắng nghe, im lặng chẳng nói ǵ, cuối
cùng, giao cho thầy quản chúng tùy nghi xử lư. Thầy quản chúng đưa ra một
h́nh phạt chẳng khó khăn ǵ: cả chúng A Nan phải tụng một thời kinh sám hối
vào ngày cuối tuần, bất cứ giờ nào thấy rảnh.
Khi các
chú của chúng A Nan tập trung trên chánh điện làm lễ sám hối, tôi cũng đi
theo. Các chú trong chúng Ca Diếp hỏi:
“Chú có
dính ǵ bên đó đâu mà phải sám hối?”
“Tôi
thích sám hối, không được sao? Thấy tôi tự động sám hối, các chú phải mừng
chứ!”
Các chú
A Nan thấy tôi, cũng hỏi:
“Chú
chỉ qua chơi thôi, đâu có tội t́nh ǵ mà sám hối?”
“Tôi
muốn sám hối. Không có tội này cũng có tội khác chứ, phải không?”
Một chú
nói:
“Biết
rồi, biết chú có tội ǵ rồi.”
Cái tội
mà chú kia nói là “biết rồi” đó, chắc là nói cái tội đi “lộn
chuồng” của tôi đêm qua, báo hại chú Đồng phải chui xuống giường để khỏi
dư nhân số của pḥng. Cái tội đó cũng đáng xử phạt lắm, nhưng trong thâm tâm,
tôi thích sám hối để chia sẻ với các chú ấy hơn là sám hối để chừa bỏ cái
tội “đi hoang” của đêm trước. Tôi muốn được chia sớt một chút nghịch
ngợm của tuổi trẻ. Làm ông cụ non lâu ngày tôi mệt lắm rồi.
a
Vào
niên học thứ hai, viện chúng tôi có thêm một giáo sư mới từ viện Đại học Vạn
Hạnh trong Sài G̣n ra. Đó là thầy Thiện Phước. Kiến thức nội và ngoại điển
của thầy đều quảng bác. Thầy giảng bài rất lôi cuốn khiến tôi say mê và
thường mong đến giờ dạy của thầy. Thầy ấy cũng là người khích lệ tôi nhiều
nhất trong lănh vực văn chương. Một hôm trong lúc tṛ chuyện thân mật, thầy
đă nói riêng với tôi:
“Chú
Khang à, chú phải là một nhà văn mới được.”
Tôi nói
một cách cố chấp rằng:
“Làm
nhà tu th́ viết văn làm ǵ, thưa thầy. Trong luật nói là... theo đuổi các
ngành nghề chuyên môn của thế tục sẽ bị động tâm nhiều, khó tu lắm, phải
không thầy?”
“Nếu
ḿnh vững tâm, chánh tâm th́ mọi hành xử của ḿnh đều phù hợp với chánh pháp
cả. Ngược lại, làm việc chân chính với cái tâm sai trái th́ cái việc chân
chính đó cũng chỉ là tà pháp mà thôi. Tại sao giáo hội có chương tŕnh huấn
luyện cho các giảng sư được mà đào tạo những nhà văn, những người viết sách
lại không được? Một bên nói, một bên viết, cũng là cách để hoằng pháp cả, có
ǵ mà phải sợ chứ?”
Rồi
thầy đem cho tôi mượn thêm một số sách luyện văn của Nguyễn Văn Hầu, Nguyễn
Hiến Lê, Tam Ích v.v... Thầy c̣n giới thiệu một số sách truyện của thầy Nhất
Hạnh, của một số đại văn hào ngoại quốc... mà không biết rằng, những thứ ấy
tôi đă lén mua và đọc trước rồi. Tôi chỉ không đi vào văn chương theo kiểu
luyện văn, cầm bút, chứ đọc sách, đọc truyện th́ tôi có từ chối bao giờ đâu.
Về phía
trường Bồ Đề, cũng có ba vị giáo sư khuyến khích tôi luyện văn, đi vào ngành
văn chương: thứ nhất là thầy Chánh (phụ trách môn Anh ngữ), thứ hai là thầy
Biển (dạy Giảng văn và Triết), thứ ba là thầy Viêm (dạy Anh ngữ, vừa là giáo
sư chủ nhiệm của lớp tôi trong năm nay).
Sự
khuyến khích của các thầy ấy chỉ như những sự nhắc nhở chứ không đẩy tôi đến
việc viết được v́ thực ra, tôi cũng chẳng có nhiều th́ giờ trong ngày để
viết. Vả lại, trong tuổi thiếu niên ấy, tôi biết viết ǵ đây. Không phải chỉ
cần có năng khiếu là đủ, dù rằng năng khiếu là điều kiện cốt yếu nhất. Cần
phải có kiến thức nữa. Mà tôi là một nhà tu không ham mấy chuyện tích lũy
kiến thức. Tôi đọc sách khá nhiều, nhưng không phải để thu góp kiến thức, và
trên thực tế, đọc sách xong, tôi cũng không nhớ ǵ hết. Nếu cầm viết, tôi sẽ
không biết viết cái ǵ. Trước mắt tôi chỉ có những khóa lễ, những câu kinh
tiếng kệ, những bài học của nhà trường, của Phật học viện... tôi không có ǵ
để nói về những thứ ấy, dù đó là những sinh hoạt chính, rất cần thiết của
tôi. Cho nên, ai khuyến khích th́ cứ khuyến khích, tôi vẫn cứ thủng thỉnh mà
bước con đường quen thuộc của ḿnh: học, đọc sách, tu tập. Cuộc sống ở Phật
học viện chỉ có những sinh hoạt đơn giản như vậy. Tầm mắt tôi được thu gọn
trong một phạm vi, tập trung vào những vấn đề then chốt liên quan đến đời
sống tu học. Ngoài ra đều thứ yếu. Quả là đôi lúc tôi có thích thú chuyện
viết văn, nhưng rồi cũng phôi pha hết. Vấn đề tu học, dù có đặt mục tiêu hay
bất cần mục tiêu, cũng đều có khuynh hướng nhắm đến cứu cánh tối hậu là giải
thoát giác ngộ. Vậy th́ mọi thứ ước muốn không nhắm vào mục đích ấy đều trở
thành xa xỉ, rơi rụng dần dần hoặc lẩn khuất đâu đó trong tâm tôi chứ không
biểu hiện thành những nhu cầu bức thiết trong đời sống.