Một hôm từ trường về, tôi có
việc phải ghé thăm một người bạn của mẹ tôi ở gần đường Bờ Sông. Tôi rủ chú
Tường cùng đi để dẫn đường v́ tôi vẫn chưa biết con đường nào khác ngoài con
đường Phạm Phú Quốc quen thuộc từ viện dẫn đến trường Bồ Đề. Xong việc, chú
Tường dẫn tôi rẽ sang đường Bờ Sông để về cho được mát một khúc đường.
Đến gần chiếc cầu đá bắc ngang
sông dẫn qua xă Cẩm Kim, chúng tôi giật ḿnh trông thấy một xác chết nằm
trên mé đường đi, gần phía cầu. Xác chết chẳng được che đậy ǵ. Đó là một
người đàn ông trung niên, dáng người lực lưỡng, mặc áo sơ mi ngắn tay, quần
cụt. Vết máu loang đầy trước ngực. Chắc là bị ai bắn. Tôi đứng đọc thầm câu
chú Văng sanh cho người đàn ông ấy. Chú Tường hỏi những người chung quanh về
xác chết. Người ta nói đó là một anh “Việt cộng.” Đêm qua người ấy đang ḷ
ṃ dưới chân cầu để gài ḿn th́ bị lính gác địa phương phát giác, bắn chết
tại chỗ. Không biết người ta c̣n chờ làm thủ tục ǵ mà cái xác để phơi ra đó
trông thật bất nhẫn.
Tôi không có cảm t́nh ǵ với
những người gọi là cộng sản. Nhưng tôi cũng không ghét họ cay đắng như kẻ
thù. Lư do rất đơn giản: tôi là một học tăng đang tu học theo đạo từ bi,
không biết oán thù ai. Tôi cũng thật sự không biết cộng sản là ǵ cả. Những
sách truyện tôi đọc, đôi khi có nhắc đến chủ thuyết cộng sản, nhưng tôi
không bận tâm để ư. C̣n người Việt Nam theo chủ thuyết ấy mà người ta gọi là
Việt cộng, tôi cũng chưa hề bắt gặp bao giờ. Ở Nha Trang rất an ninh, không
có Việt cộng quấy nhiễu nhiều như các tỉnh khác. Cho nên nếu có nghe đài
phát thanh hay báo chí nhắc đến Việt cộng, tôi cũng chẳng có ư niệm ǵ rơ
rệt hơn về họ ngoài một vài h́nh ảnh mơ hồ của những người mặc áo bà ba đen,
cầm mă tấu, tấn công vào các làng xă ở thôn quê vào ban đêm, ở các tỉnh lỵ
nào đó rất xa xôi, không phải ở Nha Trang. Họ có vẻ như chẳng dính nhập ǵ
đến cuộc sống hiện tại của tôi, dù rằng một ông cậu ruột của tôi đă bị họ xử
tử h́nh ngoài B́nh Định (ở thành phố Qui Nhơn có một con đường mang tên
người cậu này của tôi--Nguyễn Hữu Lộc). Khi nghe mẹ tôi kể sơ về cái chết
của cậu, tôi cũng không nảy sinh ư niệm hận thù đối với những người cộng sản
mà chỉ thấy se thắt trong ḷng, thương cảm cho cậu ḿnh mà thôi. Năm Mậu
Thân, người cộng sản nổi lên khắp nơi, vậy mà ở Nha Trang chỉ có mấy tiểu
đội lẻ tẻ, bị cảnh sát và quân đội Cộng ḥa vây bắt, dẹp tan một cách dễ
dàng. Bộ mặt dữ dội và tàn ác của chiến tranh không được phô bày rơ nét ở
Nha Trang. V́ vậy, có thể nói rằng, thời thơ ấu của tôi, dù nằm trong giai
đoạn nội chiến của đất nước, vẫn là một cuộc sống êm đềm, lặng lẽ. Vào chùa
rồi, tất cả thời gian của tôi đều dồn vào việc tu học, chuyện đời dù muốn dù
không, cũng gác bỏ ngoài tai. Ở Phật học viện Quảng Nam này cũng thế, quanh
năm suốt tháng hầu như tôi chẳng nghe nhắc ǵ đến mấy chữ “Việt cộng” hay
“Cộng sản.”
Giờ này trở về viện với h́nh
ảnh một một xác chết nằm phơi giữa chợ đời lảng vảng trong tâm thức, tôi
thấy quặn đau nhè nhẹ trong ḷng. Ở chùa mấy năm nay, tôi đă từng đi đám
tang nhiều nơi, nh́n những xác chết nằm trơ trong áo quan với đủ nguyên do,
nào bịnh tật, nào già yếu, nào tai nạn, nào tự vẫn... nhưng chưa có cái chết
nào khiến tôi thấy thảm thương, vô nghĩa như cái chết của một người giữa đêm
đen lầm lũi đi phá hoại, không may bị bắn chết. Và nếu sự phá hoại thành
công, vào một giờ nào đó, khi ḿn nổ, có thể có nhiều mạng người khác trong
đó có người già, em bé... bị tan xác theo cây cầu vô tri kia. Những cái chết
như vậy có ư nghĩa ǵ? À, người ta nói rằng đó là sự hy sinh cao cả của
những anh hùng dân tộc. Người cài ḿn cũng là anh hùng. Người dân bị chết
oan cũng là anh hùng (v́ chịu hy sinh theo chiếc cầu để cản bước đi của quân
thù?). Thực ra người dân vô tội không cần làm anh hùng. Chỉ có những kẻ mê
đắm chiến tranh thù hận mới tự biến ḿnh thành con thiêu thân, lao vào sự
chém giết... để trở thành anh hùng. Ôi những anh hùng dân tộc được mô tả
trong sách với những cuộc đấu tố cha mẹ bà con, chặt đầu đối phương bằng mă
tấu cùn, chôn sống đồng bào vô tội với mồ chôn tập thể. Làm sao tôi khỏi đọc
đến những h́nh ảnh man rợ ấy trong sách báo! Trong sự hiểu biết nông cạn của
ḿnh lúc ấy, tôi không sao hiểu rơ được những nguyên nhân nào đưa đến chiến
tranh trên quê hương ḿnh để rồi đẩy đưa những chàng trai của đất nước trở
thành những anh hùng chết thảm như xác người Việt cộng hôm nay. Tôi chỉ lờ
mờ cảm nhận bằng con tim ḿnh rằng h́nh như ngay cả những người cầm súng của
bên này hay bên kia, cũng đều là nạn nhân đáng thương của chiến tranh mà
thôi.
Suốt buổi chiều ấy, tâm tôi
nặng trĩu như đeo ch́. Từ bỏ cuộc đời để vào chùa xuất gia học đạo, đáng ra
tôi không cần bận ḷng với thế cuộc. Nhưng trái tim biết thương yêu, biết
rung cảm của tôi, làm sao khỏi phân vân, xúc động trước những đau thương xảy
ra trên khắp đất nước. Những ǵ tôi muốn lăng quên lâu nay, bất chợt ùn ùn
kéo đến, bắt tôi phải suy nghĩ. Tối đó, tôi phải tọa thiền lâu hơn ngày
thường để xua tan hoàn toàn ấn tượng xác chết lưu lại trong tâm trí kể từ
lúc ban trưa ở bờ sông.
Vài ngày sau, chúng tôi đến
trường Bồ Đề th́ được thầy Viêm, giáo sư chủ nhiệm của lớp tôi, cho biết
rằng trường có tổ chức một cuộc mít-tinh ngay tại sân trường. Tất cả các lớp
đều được nghỉ học nửa giờ để tham dự. Đây là cuộc mít-tinh đả đảo cộng sản
đă pháo kích vào một trường tiểu học ở Cai Lậy giết chết mấy chục em học
sinh cũng như ban giám hiệu nhà trường. Nghe thầy Viêm nói rơ lư do cuộc
mít-tinh, tôi thấy bủn rủn cả tay chân. Tôi như nghe được tiếng khóc dội
trong ḷng. Cùng các bạn ở chung lớp bước ra xếp hàng ở sân trường, tôi vẫn
c̣n thấy hai tay ḿnh run lên.
Trên bực thềm cao ở lối đi
chính dẫn vào văn pḥng hiệu trưởng, các vị giáo sư từ các lớp tập trung lại.
Học sinh toàn trường th́ xếp hàng từng lớp dưới sân. Vị giám học đọc một bài
ngắn nói về tin tức pháo kích ở Cai Lậy, chia buồn cùng gia đ́nh các em học
sinh tử nạn, lên án hành vi man rợ của người cộng sản đối với trẻ thơ và
lương dân vô tội. Sau đó, một vị giáo sư hô khẩu hiệu đả đảo cộng sản, cả
trường hô theo. Tiếng đả đảo lặp đi lặp lại nhiều lần và được hưởng ứng bởi
mấy trăm học sinh với cùng một giọng hùng mạnh, quyết tâm, rất dễ khích động
ḷng người. Nhưng trong đám đông đó, tôi chỉ đứng im, ứa lệ trong ḷng. Khẩu
hiệu, rơ ràng không khích động được ư niệm hận thù tranh đấu nào trong tôi.
Tôi chỉ thấy ḷng ḿnh khơi dậy một niềm thương cảm cực mạnh. Tôi thương đất
nước tôi ngụp lặn măi trong chiến tranh. Tôi thương đồng bào tôi từ thế hệ
này qua thế hệ khác cứ phải nai lưng ra để làm nạn nhân cho u mê và cuồng
vọng của những kẻ cầm nắm vận mệnh quốc gia ở cả hai phía. Nhưng với trí óc
non nớt, hạn hẹp của tôi, với trái tim mẫn cảm yếu đuối của tôi, tôi thực
không biết làm ǵ cho quê hương hơn là khóc rưng rức. Tôi như đứa trẻ chứng
kiến cha mẹ hay người lớn trong nhà gây căi nhau: chỉ biết ̣a khóc, chỉ thấy
tổn thương trong ḷng. Con nít chúng tôi không thích sự dữ tợn, hung hăng
của người lớn. Con nít chúng tôi không thích sự tranh căi lư luận của phe
này, phe kia. Chúng tôi là những đứa trẻ trong nhà, thương cha thương mẹ,
thương chị thương anh, chỉ biết có thương yêu mà thôi, không muốn là của
riêng phía nào. Chỉ có những đầu óc mê muội, điên rồ mới thích tạo ra chiến
tranh và thích thú với những thắng lợi chết chóc do ḿnh gây ra. Và cũng
trong vị trí của một đứa trẻ đứng ngoài nh́n cha mẹ và người lớn gây căi
nhau, tôi thấy có cái ǵ rất phi lư trong chiến tranh. Không phải riêng cuộc
chiến trên đất nước tôi, mà tất cả cuộc chiến trên thế giới, của loài người
ngu muội bày ra. Ngoại trừ cuộc chiến chống ngoại xâm để bảo vệ chủ quyền
dân tộc, tôi thấy chiến tranh vô cùng man rợ dù có khoác mặc lên ḿnh nó bất
cứ chính nghĩa nào. Nhất là cuộc chiến gây ra chỉ v́ muốn người khác phải
tin và hiểu như ḿnh. Khi cha mẹ gây căi, nếu bạn thương mẹ và đứng về phía
bà, bạn sẽ thấy mẹ ḿnh có chính nghĩa hơn cha, và ngược lại. Ai lại chẳng
có chính nghĩa! Đă lỡ gây căi nhau rồi, th́ chính nghĩa càng được xây dựng,
tô bồi thêm cho vững chắc. Không có cũng thành có. Chẳng ai muốn nh́n nhận
ḿnh là sai lầm, phi nghĩa cả. Chiến tranh v́ vậy càng không thể gỡ bỏ.
Chính nghĩa trở thành một lớp áo giả tạo để khoác mặc cho những cuồng vọng
phi nghĩa mà thôi.
a
Tết sắp đến, ở Phật học viện
cũng như trường Bồ Đề đều có làm báo xuân. Ở Phật học viện th́ mỗi tháng
chúng tôi có làm bích báo (báo tường). Mỗi chúng phụ trách một tờ. Làm xong
đem treo trên một tấm bảng lớn để cùng xem. Tờ báo của chúng Ca Diếp do tôi
phụ trách tŕnh bày, vẽ vời, chọn lựa bài vở. Báo xuân của Phật học viện
cũng không khác báo thường, vẫn là bích báo. Có điều, thay v́ làm một tờ báo
lớn th́ dịp xuân làm ba tờ cho có vẻ đặc biệt hơn. Riêng ở trường Bồ Đề, năm
ngoái đến giờ chẳng thấy đá động chi đến chuyện làm báo, bỗng dưng năm nay,
thầy Viêm chủ nhiệm lại thông báo việc làm đặc san thi đua với các lớp. Ban
đầu, mới vào pḥng học, thầy bảo cả lớp lấy ra mỗi người một tờ giấy, tự vẽ
một bức tranh nhỏ rồi đặt tựa đề cho bức tranh đó, không đề tên tác giả.
Chúng tôi cứ làm theo lời thầy mà chẳng hiểu được thầy tính làm ǵ mấy bức
tranh ấy cho giờ Anh ngữ mà thầy phụ trách. Thầy chẳng giải thích, chỉ cười
cười, cho cả lớp nửa giờ để vẽ, rồi thầy đi lên văn pḥng. Chưa đầy hai mươi
phút, trên bốn chục tấm tranh đă nộp đầy đủ trên bàn giáo sư.
Trở vào lớp, thầy Viêm ngồi
cầm xấp tranh mà ngắm nghía từng tấm, từng tấm. Xem hết xấp tranh, thầy chọn
tấm tranh của tôi, và quyết định chọn tôi làm người tŕnh bày cho tờ đặc san
của lớp. Thầy là giáo sư chủ nhiệm của lớp, dĩ nhiên cũng chịu luôn trách
nhiệm đốc thúc và cố vấn cho tờ đặc san. Lư do vẽ và lựa tranh lúc đó mới
được sáng tỏ. Thầy Viêm đưa tấm tranh của tôi lên cho cả lớp xem, thầy không
giải thích ǵ nhiều, chỉ nói: “Nét vẽ lạ, điêu luyện. Đặc biệt là bức tranh
rất ư nghĩa.” Rồi thầy lại bảo cả lớp bầu một ban báo chí. Việc bầu bán này
diễn ra cũng khá nhanh, v́ chuyện văn thơ trong lớp biết nhau cả rồi. Cuối
cùng, trưởng ban báo chí cũng là tôi. Thầy Viêm yêu cầu cả lớp tham gia viết
bài trong ṿng một tuần, đem nộp cho thầy xem trước để kiểm duyệt, rồi cho
vào đặc san.
Bức tranh của tôi vẽ khung
cảnh một góc nghĩa trang, nơi đó có một ngôi mộ của người lính. Sát mộ bia
có dựng một cây súng, và một cái nón sắt được úp trên đầu súng. Một con chim
bồ câu đậu trên cái nón sắt ấy. Dưới bức tranh, tôi đề mấy chữ: “Mơ ḥa
b́nh”. Có lẽ v́ một nỗi cảm xúc đồng điệu nào đó, thầy Viêm đă chấm bức
tranh của tôi là xuất sắc nhất trong những bức vẽ của lớp. Thầy c̣n lấy tựa
đề của bức tranh ấy làm tựa đề chung cho tờ đặc san của lớp nữa.
Thầy Viêm là một viên sĩ quan,
cấp bậc trung úy, của quân đội Việt Nam Cộng Ḥa. Chưa bao giờ thầy vận quân
phục vào lớp. Nhưng bạn học cùng lớp cho tôi biết thầy là quân nhân. Tánh
t́nh thầy hiền ḥa, cởi mở, nụ cười chực sẵn trên môi. Thầy đẹp trai, giảng
dạy có phương pháp, tận tâm, nên trong lớp, trong trường ai cũng quư mến.
Tôi không rơ t́nh h́nh chiến
tranh trong nước đang ở mức độ nào. Nhưng sau vụ Việt cộng pháo kích ở Cai
Lậy, tinh thần các giáo sư cũng như học sinh nơi đây bị chấn động không ít.
Có thể một số người căm hờn cộng sản nhiều hơn. Nhưng số khác, trong đó có
tôi, chỉ biết ước mơ một vận hội mới cho đất nước quê hương. Chúng tôi không
cần bất cứ một chủ nghĩa nào. Không cần bất cứ một ư thức hệ nào. Không cần
bất cứ một đảng phái nào. Chúng tôi chỉ cần những người cha, những người mẹ,
những thế hệ đàn anh đàn chị đi trước, hăy ngồi lại với nhau trong t́nh
thương yêu ruột thịt của gia đ́nh. Vụ học sinh tiểu học chết oan ở Cai Lậy
chỉ là một trường hợp trong muôn ngàn trường hợp ngu xuẩn khác của chiến
tranh. Việt cộng không phải chỉ mới pháo kích và giết oan một trường tiểu
học mà c̣n rất nhiều vụ tàn bạo khác nữa. Cũng vậy, khi oanh tạc cơ của Mỹ
và của Không quân Quốc gia dội bom ở Bắc Việt, có thể cũng có nhiều trường
tiểu học, và mẫu giáo nữa, đă trở thành tro bụi. Người lớn quư vị chỉ “hy
sinh” thời giờ để hội họp, bàn thảo kế họach chém giết nhau. Chỉ có bầy
con nít ở hai miền Nam Bắc chúng tôi mới thực sự là hy sinh cả xương máu của
ḿnh. Nhưng tất cả máu xương mà chúng tôi đóng góp đó, cũng chỉ là hậu quả
của chiến tranh mà thôi. Hậu quả không sai lầm, chỉ có nguyên nhân mới sai
lầm. Vậy th́ có ích ǵ cho việc hô hào chiến đấu đả đảo! Ích ǵ việc cổ vơ
cho hận thù và chém giết! Nơi đây quư vị tổ chức mít-tinh cho con nít chúng
tôi đả đảo cộng sản th́ ngoài kia, cộng sản cũng hô hào con nít đả đảo
Mỹ-Thiệu. Giải quyết được cái ǵ? Có ai đúng đâu! Có ai thắng đâu! Chỉ có sự
mê mờ và thảm bại cho cả dân tộc! Không chịu vứt đi những mê chấp của ư thức
hệ th́ cuộc chiến hăy c̣n tiếp diễn măi. Chua xót, mỉa mai nhất là các bậc
cha mẹ anh chị đă lỡ bước mê lầm ấy mà lại c̣n khích động, dạy dỗ con em
ḿnh lao vào con đường tang tóc đổ vỡ kia; cũng lao vào với “chính nghĩa
sáng ngời” mà chỉ có bom đạn mới bảo vệ nổi. Trong chính nghĩa đó, quư
vị đem cái tâm đen tối để chém giết nhau; và quư vị xô đẩy con em, xô đẩy
hàng triệu học sinh thơ dại chúng tôi vào vực thẳm. Quư vị không thương tiếc
ǵ máu xương vô tội của bầy con nít chúng tôi cả. Quư vị chỉ lợi dụng cái
chết của chúng tôi để hô hào chiến tranh. Đừng nói rằng quư vị chém giết
nhau chỉ v́ quyền sống của bầy con nít chúng tôi. Quư vị không thương, không
hiểu ǵ con nít chúng tôi cả. Con nít chúng tôi đâu cần hận thù, đâu cần
tranh đấu, đâu cần huy chương hay bằng tưởng thưởng ǵ! Trước sự mê muội cấu
xé nhau của quư vị, chúng tôi chỉ biết khóc và bật ra ước mơ nhỏ nhoi của
ḿnh mà thôi. Đó là ước mơ ḥa b́nh. Trong tâm cảnh của một học sinh, một
đứa con nít chưa học hiểu ǵ về các chủ nghĩa, tôi vẽ nên bức tranh đó.
Khi thầy Viêm chọn bức tranh
và cái tựa “Mơ ḥa b́nh” của tôi làm tranh b́a và chủ đề cho đặc san
của lớp, tôi biết thầy ấy đă thay mặt cho nhiều thế hệ cầm súng khác, nói
lên ước vọng ḥa b́nh của ḿnh. Những thế hệ cầm súng ấy, trước đây cũng chỉ
là những đứa con nít như chúng tôi bây giờ, vừa kịp lớn lên đă lao vào cuộc
chiến, không cưỡng lại được. Tuổi trẻ chúng tôi đă thức tỉnh, đă thấy được
cái phi lư vô cùng của chiến tranh. Nhưng chúng tôi không làm ǵ được với
hiện t́nh quê hương. Bổn phận của chúng tôi là phải bước chứ không cần phải
thấy. Trong khi đó, chỉ có quư vị người lớn có thẩm quyền của cả hai phía
mới có được giải pháp ḥa b́nh cho quê hương này. Nhưng tiếc thay, quư vị đă
mù ḷa, không c̣n thấy ǵ khác ngoài lợi danh và thù hận.
Trong ṿng nửa tháng, tập đặc
san hoàn tất. Thầy Viêm hài ḷng lắm. Thầy đem đặc san nộp cho ban giám khảo
của cuộc thi báo chí toàn trường. Sau kỳ thi đệ nhất lục cá nguyệt và gần
đến dịp nghỉ Tết, chúng tôi mới biết được kết quả của cuộc thi báo. Thầy
Viêm vào lớp với nụ cười rất tươi, cho biết tờ đặc san của lớp chiếm được
hạng nhất. Thầy c̣n cho biết không phải chỉ nhờ h́nh thức trang nhă và ư
nghĩa của bức tranh, của chủ đề “Mơ ḥa b́nh” mà c̣n nhờ vào nội dung
khá đặc sắc của đặc san. Trong đó, đặc biệt nhất là truyện ngắn đầu của tôi,
tựa đề là “Cởi trói.”
Truyện kể rằng, có một tên
cướp bị quan quân truy nă, trốn vào một ngôi chùa. Nơi đây có một vị ḥa
thượng đang tọa thiền. Trốn lánh được một lúc lâu, tên cướp thấy đói bụng mà
vị ḥa thượng vẫn c̣n ngồi thiền như không hay biết sự có mặt của hắn trong
chùa. Không chờ đợi được nữa, tên cướp đến lay ḥa thượng, kề gươm vào cổ
người, bảo người đi kiếm thức ăn cho hắn. Nhưng vị ḥa thượng vẫn b́nh thản,
không chút sợ hăi, từ tốn nói: “Nguy hiểm tới chân rồi mà c̣n hung hăng uy
hiếp kẻ khác để đ̣i miếng ăn sao?” Vừa dứt lời th́ có tiếng quan quân ùa tới
ngoài sân, bao vây chùa. Tên cướp ngỡ rằng vị ḥa thượng đă cho người đi báo
với quan quân sao đó họ mới kéo đến đây, bèn đem trói vị ḥa thượng, treo
lên xà nhà để đánh đập, hành hạ cho bơ ghét đồng thời để giữ làm con tin.
Trong khi đó, quan quân bên ngoài v́ tôn trọng nơi thờ tự tôn nghiêm đă
không dám mang vũ khí xông vào chùa, nên chỉ đứng ở ngoài kêu gọi vị ḥa
thượng đuổi tên cướp ra khỏi chùa th́ họ mới bắt được. Dĩ nhiên vị ḥa
thượng không thể làm được chuyện đó v́ đang bị khống chế. Quan quân thấy tên
cướp không ra mà vị ḥa thượng im lặng không trả lời nên cho rằng vị ḥa
thượng cố t́nh chứa chấp, bao che hoặc đồng lơa với tên cướp. Trong khi đó,
bên trong, tên cướp tự động kiếm thức ăn rồi cứ ngồi kề gươm giữ ḥa thượng
làm con tin. Nhưng trước thái độ b́nh thản và tấm ḷng từ bi, bao dung của
ḥa thượng, tâm sân hận của tên cướp dần dần dịu xuống. Hắn bắt đầu gợi
chuyện với vị ḥa thượng. Sau một lúc đàm đạo, hắn được vị ḥa thượng cảm
hóa, bèn sám hối, mở trói cho vị ḥa thượng và xin làm đệ tử. Vị ḥa thượng
vẫn hiền lành nói: “Ta đă cởi trói cho ngươi trước rồi đó.”
Câu chuyện ấy, tuy kỹ thuật
non yếu, văn kể vụng về với đôi chỗ không thực tế, thiếu hợp lư, nhưng nội
dung câu chuyện cũng nói lên được phần nào thái độ của người phật tử (kể cả
xuất gia lẫn tại gia) hay của những thường dân Việt Nam đối với chiến tranh.
Cái “ước mơ ḥa b́nh” cũng được gởi gắm nơi ấy. Và phải chăng ban giám khảo
của cuộc thi báo chí cũng đă mệt mỏi với chiến tranh, với thù hận, đă quyết
định chấm điểm cao nhất cho tập san của chúng tôi? Có lẽ là vậy. Chiến tranh
là tṛ chơi phí phạm máu xương nhiều nhất mà chỉ có những kẻ xuẩn ngốc mới
hăng hái bày ra. Không có chiến tranh, cuộc sống cũng đă đầy đủ ư nghĩa rồi,
cần ǵ phải t́m thêm ư nghĩa nào trong tṛ chơi rồ dại ấy! Tôi chỉ muốn nói
lên một điều đơn sơ như vậy thôi. Lũ con nít chúng tôi không cần tṛ chơi mà
quư vị người lớn bày ra.
a
Tết năm ấy, chú Sáng và các
chú trong nhóm Nha Trang đều trở về. Tôi không về mà cùng đi Huế với chú Tửu.
Ngày mồng một, tôi đón giao thừa tại Phật học viện. Qua mồng hai, tôi và Tửu
mới rời viện để đi Huế. Trước hết, cùng đến chùa Tan Bảo ở Đà Nẵng để gặp
chú Tâm Hạnh. Chú Tâm Hạnh như đă nói ở trước, là đệ tử lớn nhất của thầy
tôi. Ở Phật học viện Phổ Đà, chú ấy là tăng sinh xuất sắc của viện. Nhưng
rồi không biết do ảnh hưởng từ kinh điển, từ bạn bè, hay từ sở thích, chú
Tâm Hạnh bỗng bỏ Phật giáo Bắc tông để chuyển qua Phật giáo Nam Tông (Theraveda,
tức Phật giáo Nguyên thủy). V́ thay đổi tông phái, dĩ nhiên chú không c̣n
theo học Phật học viện Phổ Đà nữa.
Chúng tôi đến vào Tam Bảo giấc
trưa, nhằm lúc chư tăng ở đây đang thọ trai. Chúng tôi đứng ngoài nh́n vào,
thấy một bàn thịt cá th́ giật ḿnh. Dù đă biết trước chuyện chay mặn chẳng
quan trọng hay ảnh hưởng ǵ đến vấn đề giải thoát giác ngộ, chúng tôi cũng
chưa dễ chấp nhận được chuyện thịt cá bày ra trong cửa chùa. Chú Tâm Hạnh
được thông báo có khách, ra gặp chúng tôi th́ mừng rỡ, nhưng cũng nói ngay
cho chúng tôi khỏi bỡ ngỡ, thắc mắc:
“Truyền thống Nam tông họ ăn
chay khác với ăn chay của ḿnh. Chữ trai, tức là chay, được hiểu là
ăn một ngày một bữa vào giờ ngọ và thí chủ dâng cúng thứ ǵ th́ hoan hỷ ăn
thứ nấy, không phân biệt. Ăn chay như thế khác với ăn chay theo nghĩa chỉ ăn
thực vật như bên Bắc tông ḿnh. Tôi theo họ nhưng cũng chưa quen chuyện cá
thịt, vẫn phải ăn chay như xưa”.
Biết chúng tôi sắp đi Huế, chú
Tâm Hạnh cũng muốn đi. Chú vào thu xếp hành lư, bỏ vào cái đăy nhỏ, theo
chúng tôi đi ngay. Ra Huế, chúng tôi được chú Tâm Hạnh đưa đến chùa Thiền
Lâm trước. Đây là ngôi chùa thuộc hệ phái Nam Tông, được cất trên núi. Vị
Thượng tọa viện trưởng ở đây cũng là một vị thầy từ Bắc tông đổi qua. Thượng
tọa cũng quen dùng chay theo Bắc tông nên dù đă chuyển qua Nam tông từ lâu,
vẫn cứ dùng thực vật chứ không dùng được cá thịt. Lúc chúng tôi đến chùa,
Thượng tọa đi vắng chưa về. Dạo cảnh một lúc, chúng tôi được báo cho biết là
Thượng tọa đang trên đường hướng về chùa. Thượng tọa có định lực và đức độ
rất cao, khi vừa trông thấy ngài từ ngoài bước vào cổng, tự dưng chúng tôi
quỳ lạy ngài ngay trên nền đất ở ngoài sân.
Chúng tôi ở lại đây một đêm.
Thượng tọa tế nhị, biết chúng tôi bên Bắc tông ăn chay và có ăn bữa chiều
nên cho người xuống núi nhờ một gia đ́nh thí chủ thân tín nấu cháo chay đem
lên cho chúng tôi.
Sáng hôm sau, chú Tâm Hạnh đưa
chúng tôi đến chùa Linh Mụ và một số chùa nổi tiếng khác như Tường Vân, Kim
Tiên, Từ Hiếu, Từ Đàm, Linh Quang v.v... Đến chùa Linh Mụ, chúng tôi t́nh cờ
gặp thầy Trí Siêu (Lê Mạnh Thát) từ Sài G̣n mới ra. Trước đây, thầy Trí Siêu
tu ở chùa này. Chú Tâm Hạnh cho tôi biết thầy ấy là một trong những du học
sinh xuất sắc nhất tại Mỹ; thầy ấy đă lấy ba bằng tiến sĩ Y khoa, Nhân chủng
học và Triết học. Thầy Trí Siêu mới về nước năm ngoái. Dùng cơm trưa tại
chùa Linh Mụ, chúng tôi nghe kể về sinh hoạt học đường tại Mỹ. Nghe chuyện
du học tôi thấy thích thú, nhưng cái tâm ư quê mùa bảo thủ của tôi lại cảm
thấy sợ hăi đời sống Mỹ. Tôi tự nghĩ, nếu được một phép du học, chắc tôi sẽ
chọn một nước Á châu nào đó chứ không chọn Mỹ hoặc các nước Âu châu. Dù sao,
cuộc gặp gỡ ngắn ngủi trong bữa ăn cũng mở rộng tầm nh́n của tôi. Nhớ hồi
chưa xuất gia, tôi đă từng chán ghét chuyện học. Nỗi chán ghét ấy bây giờ
không c̣n nữa th́ phải. Có lẽ tôi đă trưởng thành và đă trở thành một người
“hiếu học”! Ồ, du học! Hai chữ ấy đọc lên nghe thật lôi cuốn.
Trước khi rời Huế, chúng tôi
đến thăm viếng Thành nội nhưng người ta bảo là mất an ninh, cấm vào. Lại là
hậu quả của chiến tranh. Đành ở chơi phía ngoài Phu Văn Lâu rồi ra bến xe,
trở về.
Chúng tôi không về thẳng Đà
Nẵng mà xuống xe tại Lăng Cô, gần đèo Hải Vân. Nơi đây có tịnh thất Huyền
Không của sư Viên Minh và sư Giới Đức, hai vị sư trẻ và lỗi lạc của Phật
giáo Nam tông. Huyền Không là tên gọi chung vài cái cốc nhỏ được cất trên
một ngọn núi ở Lăng Cô. Mỗi sư có một cốc riêng. Ngoài ra c̣n có một thư
viện nhỏ, nhiều sách. Cốc đều được cất bằng gỗ, đánh vẹt-ni bóng loáng. Mái
lợp bằng lá dừa, rất đẹp và mát. Cốc có bốn vách vuông vức, với một cửa
chính và hai cửa sổ lớn mở ra hai bên, khoảng khoát. Hai mái lợp đứng, kiểu
tháp, như của Thái-Miên. Cửa chính của thư viện mở ra phía biển ở xa xa. Tôi
thầm nghĩ: “Ẩn tu nơi một cảnh trí hữu t́nh thơ mộng như vầy th́ c̣n ǵ sung
sướng bằng... Tuy nhiên, có phải chăng, khi người tu say đắm cảnh đẹp thiên
nhiên th́ cũng có thể say đắm vào sắc dục hay bất cứ vẻ quyến rũ nào khác
của cuộc đời ? V́ thực ra, điều cốt yếu của giải thoát là dẹp bỏ sự say đắm
chứ đâu phải dẹp bỏ hay xa ĺa những đối tượng, đối cảnh...”
Dù sao, tôi cũng không ngăn
được sự rung động trước một cảnh trời mênh mông tuyệt đẹp như vầy. Bờ biển
Lăng Cô đá lớn, đá nhỏ mọc lởm chởm. Sóng vỗ ́ ầm đánh tung bọt trắng trên
những tảng đá phủ rêu ấy. Thuyền chài dăm chiếc như đứng lặng ngoài khơi.
Nơi đây c̣n hoang sơ thơ mộng hơn núi đồi Trại Thủy Nha Trang. Tôi đứng chết
sững trên núi, nh́n về muôn dặm xa, nơi mà sóng biển trườn lên, níu lấy chân
trời. Vẫn có cái ǵ khó hiểu, mơ hồ nhưng đầy hấp lực nơi khoảng trời xa ấy.
a
Khi chúng tôi vào học lại đâu
được một tuần th́ có Thượng tọa Đỗng Minh từ Nha Trang đi Huế và Đà Nẵng,
ghé thăm Phật học viện. Thượng tọa là giám đốc xưởng vị trai Lá Bồ Đề, một
cơ sở sản xuất khá qui mô của Tỉnh giáo hội Nha Trang. Thượng tọa cũng là
giám học của Phật học viện Hải Đức và trong viện Hóa Đạo, Thượng tọa là Vụ
trưởng Vụ Phật học viện. Đây là chuyến công du thăm viếng các Phật học viện
trên toàn quốc để nghe ngóng t́nh h́nh sinh hoạt của các Phật học viện đồng
thời thông báo các chương tŕnh đặc biệt của Vụ Phật học viện nhằm nâng đỡ
các học tăng xuất sắc. Dĩ nhiên đó là chuyện mà Thượng tọa Đỗng Minh bàn
riêng với Thượng tọa giám viện và ban giám học, học tăng chúng tôi không sao
biết được. Nhưng sau đó, tin tức cũng đến tai tôi, do thầy Giải Trọng, vị
giám sự của Phật học viện kể lại. Tin ấy quả thực làm tôi phấn khởi vô cùng.
Với sự hỗ trợ của Giáo hội
trung ương, Vụ Phật học viện t́m cách cho đi du học các tăng sĩ xuất sắc ở
các địa phương, đặc biệt là các học tăng đang theo học tại các Phật học viện
toàn quốc. Chuyện đi du học ở quốc gia nào th́ chưa rơ, có lẽ c̣n tùy thuộc
ở điều kiện tài chánh cũng như sự vận động ngoại giao của Giáo hội trung
ương. Nhưng riêng Ấn Độ và Thái Lan th́ đă rơ: Giáo hội có thể cho tăng sĩ
thành niên hay vị thành niên đi du học tại hai nước này. Thầy Giải Trọng nói
với tôi:
“Phật học viện ḿnh sẽ giới
thiệu vài học tăng, hay ít nhất cũng một học tăng. Chú nào được chọn th́
chưa biết, nhưng chú Khang th́ nghe Thượng tọa giám viện có thưa chuyện
trước với Thượng tọa Đỗng Minh rồi. Chắc chắn là chú được chọn v́ là tăng
sinh xuất sắc nhất của viện. Chỉ cần trau dồi thêm tiếng Anh nữa là xong.
Tŕnh độ trung học cũng qua Ấn học được chứ không cần phải xong Tú tài hay
bậc Đại học.”
Tôi vẫn thường có ước mơ được
hành hương xứ Phật. Nhưng tôi không thể tưởng được rằng ước mơ ấy có thể đến
với tôi dễ dàng và kề cận như vậy. Mặc dù chưa có tin chính thức nào trên
văn bản, tôi vẫn thấy đó là điều có thể xảy ra, hầu như không c̣n là ước mơ
nữa mà sắp trở thành hiện thực. Ừ nhỉ, mới hôm Tết gặp thầy Trí Siêu, không
phải tôi đă nẩy sinh trong ḷng ước muốn được du học đó sao! Sợ không thích
hợp với Mỹ quốc th́ du học Ấn Độ, cũng là du học thôi. Nhưng ở Ấn Độ c̣n
thăm viếng các Phật tích, được sống lại với khung trời cũ một thời lưu dấu
chân Phật.
Tuổi trẻ có nhiều ước mơ. Ước
mơ này chồng lêm ước mơ kia. Cái nào mạnh th́ trùm lấn. Cái nào kề cận dễ
thành th́ nổi bật. Khi chuyện giáo hội nâng đỡ học tăng du học đến tai tôi,
ước mơ xuất ngoại bỗng lớn nhanh như thổi. Nó chiếm khá nhiều th́ giờ rảnh
của tôi. Tôi t́m đọc thêm và đọc lại một số sách về lịch sử Ấn Độ cũng như
các sách viết về những Phật tích. Có khi tôi nằm mơ thấy ḿnh đang đứng bên
cội cây bồ đề mà năm xưa đức Phật thành đạo.
Nhưng chỉ vài ngày sau, có tin
Tổng thống ra lệnh tổng động viên các tu sĩ Phật giáo trong tuổi quân dịch
nếu những vị này xuất gia chưa được năm năm. Lệnh ấy không ảnh hưởng ǵ đến
cá nhân tôi cả, v́ lúc ấy tôi chỉ mới mười sáu tuổi, chưa đến tuổi quân
dịch, c̣n thời gian xuất gia th́ tôi cũng chỉ c̣n vài tháng nữa là được năm
năm rồi. Tuy nhiên, lệnh tổng động viên này đă làm chấn động, xôn xao trong
giới tu sĩ trẻ Phật giáo. Viện tôi có khoảng mười chú dính vào lệnh tổng
động viên này. Tin đồn rằng có thể chính phủ sẽ động viên những tu sĩ trong
tuổi quân dịch chứ không loại trừ những người xuất gia trên năm năm. Tôi
biết có nhiều chú xuất gia từ nhỏ, nhưng ở chùa không hề làm cho một tờ giấy
ǵ để chứng minh ngày tháng xuất gia của họ. Nhất là ở các chùa tư (học tăng
chúng tôi thường gọi như vậy để phân biệt với Phật học viện) và các chùa ở
thôn quê, xuất gia th́ xuất gia, chẳng ai nghĩ đến chuyện làm giấy tờ ǵ.
Bây giờ gặp chuyện mới giật ḿnh. Nhiều chú lo viết thư về chùa gốc của ḿnh
để xin thầy bổn sư t́m cách chứng minh. Không khí trong viện thật căng
thẳng. Tôi nh́n các chú trong tuổi quân dịch mà thấy ngậm ngùi, thương cảm.
Tôi không thể tưởng tượng được những chú tiểu quanh năm suốt tháng, tụng
kinh, niệm Phật, ăn chay giữ giới lại có thể cầm súng ra trận để bắn vào đối
phương. Những chú tiểu ấy, đến con kiến cũng không dám giết. Lỡ có bị kiến
cắn nhè nhẹ tay mà gỡ nó ra, thả cho nó ḅ đi chỗ khác. Bước chân đi cũng sợ
chết oan những loài sâu bọ dưới đất, cứ phải đọc bài chú nguyện để cầu
nguyện sẵn cho loài nào vô t́nh bị chết dưới những bước chân của ḿnh. Tâm
tư hạnh nguyện như vậy đó, bây giờ phải ra cầm súng bắn giết, có phải là
điều trớ trêu lắm không? Chú Đồng Nguyện, thư kư văn pḥng của Phật học
viện, đưa nhật báo cho chúng tôi xem. Báo chí đăng liên tục về lệnh tổng
động viên ấy. Viện trưởng Viện Hóa Đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống
nhất, lúc đó là Ḥa thượng Thích Trí Thủ, đang vận động chính phủ băi bỏ
lệnh tổng động viên nhắm vào tu sĩ Phật giáo. Chưa biết kết quả thế nào. Báo
chí c̣n ước chừng số tu sĩ Phật giáo cả nước nằm trong tuổi quân dịch (không
kể là đă xuất gia được bao lâu) là mười ngàn người. Có chú buột miệng nói:
“Một đạo quân lớn! Đạo quân
ḥa b́nh! Cứ xếp hàng ra đứng ở giữa hai phe đang bắn giết nhau, kêu gọi họ
ngưng bắn, vậy là có ḥa b́nh rồi nhỉ!”
Các chú cùng cười. Có chú chêm
vào thêm:
“Không, mười ngàn người th́
ḿnh chia ra làm hai: năm ngàn người cầm mơ, năm ngàn người cầm chuông, ra
trận cứ gơ lên mà tụng vang bài chú Đại Bi là Việt cộng cũng chạy trốn hết!”
Đến nước này mà c̣n giỡn như
vậy th́ chỉ c̣n biết cười ra nước mắt. Nhưng thực tế có thể là vậy. Vũ khí
của người tăng sĩ Phật giáo chỉ có ḷng thương rộng lớn (đại bi) mà thôi.
Mọi hành xử của họ đối với con người, đối với cuộc đời, đều do sự tác động
của ḷng thương. Và nếu trực diện với hận thù, tàn ác, những con người này
chỉ biết lấy ḷng thương để đáp lại chứ chẳng có tâm địa nào khác hơn.
T́nh h́nh chiến sự trong nước
càng lúc càng sôi bỏng. Chúng tôi, dù muốn dù không, cũng phải nghe biết.
Mỗi ngày chúng tôi vẫn cắp sách đến trường, nhưng tinh thần học coi ṃi đă
xuống dốc. Không khí lớp học cũng rời ră. Giáo sư vào lớp chỉ nói chuyện
chính trị. Thầy Viêm chủ nhiệm lớp tôi đă có lệnh gọi đi tác chiến. Không
biết thầy ấy ra đi có mang theo h́nh ảnh “Mơ ḥa b́nh” của đặc san
lớp học không. Rồi nghe rằng có lệnh rút quân của Tổng thống. Nghe rằng Buôn
Mê Thuột đă bị mất. Nghe rằng các tỉnh cao nguyên nối tiếp nhau, lọt vào tay
Việt cộng. Đến nước đó th́ các giáo sư hết mở lời, vào lớp chỉ ngồi thừ ra,
im lặng, ngó mông lung ngoài cửa sổ, hút thuốc tự nhiên trước mặt học sinh,
thỉnh thoảng lại ngáp dài. Học sinh uể oải theo. Thầy Châu giám học vào lớp
cho biết toàn trường phải lo thi đệ nhị lục cá nguyệt sớm hơn một tháng.
T́nh h́nh căng quá, học và thi cũng phải rút ngắn lại. Thầy giám học làm
xong nhiệm vụ thông báo mà vẫn không muốn rời khỏi lớp tôi. Trong lớp học có
nhiều tu sĩ, nhiều chú tiểu ngây thơ như lớp tôi, có lẽ thầy muốn nấn ná tâm
sự hay giải bày ǵ đó. Nhưng rồi thầy cũng phải bước ra. Nh́n chúng tôi lần
cuối, nhún vai, rồi đi thẳng... Có cái ǵ đó sắp xảy ra rồi.
Ở viện, Thượng tọa giám viện
và ban giám đốc thường cùng nghe đài VOA, BBC và đài phát thanh Sài G̣n vào
mỗi sáng sớm và chiều tối. Báo chí đến Hội An thường chậm trễ và hiếm. Chỉ
có ra-đi-ô là có thể mang lại tin tức nhanh chóng nhất cho Phật học viện
chúng tôi mà thôi. Mỗi ngày tin tức càng nóng bỏng, sôi sục hơn. Các thầy
ngồi nghe không biết đă nghe được ǵ, chỉ thấy thầy th́ lắc đầu, thầy th́
thở dài. Không khí tu học ở viện cũng bị ảnh hưởng tin tức thời sự không ít.
Thượng tọa giám viện có vẻ buồn, thường trầm ngâm, giảng không hứng thú nữa.
Các giờ học khác đều được cho nghỉ sớm. Có giờ được nghỉ hẳn.
Nhưng chưa có lệnh nghỉ th́
học tăng chúng tôi như thường lệ, vẫn cứ xếp hàng dọc xuống trường Bồ Đề mỗi
chiều (năm ngoái là buổi sáng, năm nay đổi lại). Con đường từ viện ra đến
đường nhựa gần hai cây số đường đất, vẫn êm đềm lặng lẽ chạy ṿng qua những
rặng tre và đồng ruộng xanh ngát dưới cơn nắng cuối xuân. Có những con chim
nhảy nhót trên bụi dâm bụt nhà ai. Dăm con c̣ trắng chậm răi bước trên
khoảng ruộng ngập nước. Bầu trời không mây xanh ngắt một màu. Chúng tôi bước
đi một đoàn người, mà nghe không khí tịch mịch, im vắng kỳ lạ. Nhưng vừa đến
khoảng đầu đường, chỗ quán bánh ḿ bà Đạo, chúng tôi bỗng nghe tiếng ồn ào
huyên náo dễ sợ như vỡ ra ở phía trước.
Chúng tôi tiếp tục bước đến
chỗ giáp với đường nhựa th́ không thể bước qua đường được nữa. Đoàn tăng
sinh tự động tan hàng một cách bỡ ngỡ, bàng hoàng v́ cảnh tượng xảy ra trước
mắt: một ḍng nườm nượp xe cộ và người.
Xe cộ ùn ùn chạy qua, c̣i xe
bấm inh ỏi, tiếng người la hét, gào thét vang rần. Nhiều người tay ẵm tay
dắt mấy đứa con, vừa chạy vừa khóc. Xe lớn, xe nhỏ, xe gắn máy, xe đạp, xích
lô, xe ḅ... và cả những người chạy bộ, đều rần rần hướng về phía Đà Nẵng.
Những khuôn mặt cuống quít chạy qua đều hớt hơ hớt hăi, xanh lét xanh lè,
trông thật thảm hại. Tưởng chừng chưa có niềm khiếp sợ nào to lớn hơn. Chú
Tường dạn dĩ chận người quen lại hỏi thăm chuyện ǵ mà mọi người bỏ chạy
hoảng loạn như vậy. Có người chỉ kịp lắc đầu rồi tiếp tục chạy, có người
chẳng nói một tiếng. Cuối cùng mới có người trả lời gọn một câu:
“Việt cộng đánh Quảng Ngăi hồi
trưa nay.”
Té ra là vậy. Tin đồn lan đi
rất nhanh ở thị xă Hội An từ những đồng bào ở Quảng Ngăi chạy trốn Việt cộng
theo ngă biển vào cửa Đại (cửa biển của Hội An). Chẳng biết đài phát thanh
đă thông báo tin ấy chưa mà đồng bào Hội An đă tuôn chạy như vầy rồi.
Nhiều chú nghe chuyện đă muốn
quay về nhưng chú chúng trưởng bảo cứ đi thẳng xuống trường Bồ Đề coi có
được phép nghỉ học chưa. Vậy là theo kỷ luật tập thể, chúng tôi cứ ngược
ḍng thác người đó mà đi. Đúng là một ḍng thác người, cuồn cuộn chảy tới,
không có khe hở, không có ngừng nghỉ. Ở bến xe Hội An-Đà Nẵng, cứ mỗi chiếc
xe đ̣ từ Đà Nẵng vừa cập bến, người ở trên chưa kịp bước xuống th́ người ở
dưới đă nhảy phóc lên, giành giật chỗ ngồi, la hét ỏm tỏi. Nhưng người từ Đà
Nẵng về th́ chỉ lác đác. Có lẽ họ có việc phải về Hội An để thu xếp chi đó.
Có xe từ Đà Nẵng về chỉ là xe không. Hành khách đứng ngồi chật cứng ở bến xe.
Xe chưa đậu hẳn là đă hết chỗ ngồi. Nhiều người nhảy đại lên mui, tự xếp
hành lư và chỗ ngồi cho ḿnh và gia đ́nh. Học tăng chúng tôi hơn bốn chục
người bây giờ nh́n lại chẳng thấy ai. Tản mác ở đâu hết rồi. Chúng tôi lạc
nhau, chúng tôi tan loăng vào giữa ḍng người. Quanh tôi chỉ c̣n Sáng và
Hưng. Có lẽ v́ chúng tôi bước chậm. Chúng tôi lần ṃ đi được một đoạn th́
lại lạc mất chú Hưng. Chỉ c̣n tôi và Sáng. Giữa ḍng người ùn ùn kéo chạy,
chúng tôi bỗng thấy lạc lơng, bơ vơ. Người ta dắt díu nhau bỏ chạy, nào cha
nào mẹ, nào anh chị em khắng khít đùm bọc nhau. Chúng tôi th́ lững thững
bước. Không người thân bên cạnh. Các chú khác đă quay về Phật học viện hoặc
tụ lại với nhau ở một địa điểm nào rồi. Tôi nh́n Sáng, tự dưng thấy tội
nghiệp và thương chú quá. Dù sao th́ Sáng cũng nhỏ hơn tôi hai tuổi. Lần đầu
tiên, tôi nắm lấy tay chú dắt đi như dắt một đứa em nhỏ. Tôi muốn an ủi và
tỏ chút t́nh huynh đệ với chú trong lúc chạy loạn này. Tưởng là ḿnh lớn hơn
bảo bọc chú, trấn an chú, nào ngờ khi đi ngang một cây xăng nhỏ bỗng nghe nổ
một tiếng “ầm”, lửa phực cháy, chú Sáng vụt khỏi tay tôi, bỏ chạy, lanh như
con mèo. Tôi chỉ vừa quay đầu ngó vào cây xăng, rồi ngoảnh lại đă thấy chú
đứng cách xa ḿnh cả hai chục thước. Thấy không có ǵ xảy ra, chú mới dừng
lại để chờ tôi. Người chủ cây xăng đă dập lửa kịp thời. Khi tôi bước theo
kịp, chú Sáng nói một câu chữa thẹn:
“Tưởng đâu có bom đạn ǵ nổ
chứ!”
Chú ấy có vẻ xấu hổ khi bỏ tôi
mà chạy v́ một chuyện không đáng ǵ. Nhưng tôi chẳng chấp trách ǵ chuyện đó.
Tôi chỉ tự hỏi, nếu cây xăng nổ tung, có phải là một người chậm chạp, khờ
khạo và khư khư giữ lấy oai nghi tế hạnh như tôi sẽ không thể nào tránh khỏi
tai nạn lớn chăng? Đây là do sự định tâm lâu ngày mà tôi b́nh tĩnh trước
hoàn cảnh hay chỉ v́ bản năng tự vệ và phản ứng cơ thể của tôi bị chậm lụt,
tŕ trệ?
Đi thêm một khúc đường, chúng
tôi gặp các chú đi trước quay ngược trở lại. Các chú kéo chúng tôi cùng về
viện. Họ nói:
“Trường Bồ Đề cũng đă đóng cửa.
Không có ai ở đó cả. Ông cai trường cũng kéo gia đ́nh chạy đi rồi!”
Lối về ngang qua đồng ruộng và
rặng tre xanh, nhưng ḷng tôi đă nặng trĩu. Mấy con chim từ bờ dậu nhà ai
hoảng hốt bay về phía mộ địa. Đàn c̣ trắng cũng đă bay đi đâu mất dạng
phương nào rồi.
Vào bữa cơm chiều hôm ấy.
Thượng tọa giám viện tuyên bố giải tán Phật học viện. Ai nấy nghẹn ngào nuốt
cơm không vô nữa. Học tăng chúng tôi biết chuyện học, chuyện tu của ḿnh rồi
sẽ bị chướng ngại, gián đoạn, bao mộng ước lớn nhỏ đều tan vỡ, và chúng tôi
chỉ c̣n chung sống với nhau một đêm cuối cùng này nữa thôi.