CHƯƠNG BA
Trước thềm chánh điện chùa Hải Đức, Nha Trang
(ảnh của Vơ Văn Tường)
Công việc đầu tiên của tôi trong ngày đó là
xin phép mẹ qua chùa sư nữ Vạn Thạnh để thăm các sư cô và các tiểu ni, đồng
thời là để báo tin mừng xuất gia của ḿnh. Tôi mang theo cuốn kinh nhật tụng
rách để trả lại cho chùa, dự định thú thật rằng chính ḿnh đă ăn cắp cuốn
kinh đó, xin sám hối các sư cô chứ không đá động ǵ đến “công lao” của chị
Su.
Sau khi tôi trốn đi, gia đ́nh tôi có qua
chùa t́m và nhờ các sư cô t́m giúp. V́ vậy, các sư cô đều biết chuyện trốn
nhà của tôi. Nay thấy tôi về, ai cũng mừng, xúm lại hỏi han như người trong
nhà. Quả vậy, tự dưng tôi thấy thân mật với chùa, dù đây là chùa sư nữ. Các
sư cô, các tiểu ni, bỗng trở thành những bà con, những chị em thân thiết.
Ngày hôm đó, tôi ở lại thọ trai tại chùa.
Tôi cũng được sư cô Huệ Tín hướng dẫn học kinh. Cô cho tôi một cuốn kinh
nhật tụng mới. Chiều, tôi theo các tiểu ni tụng thời công phu. Tối, tôi theo
các sư cô tụng kinh Pháp Hoa. Sau thời kinh tối này tôi mới về nhà tắm rửa
và ngủ. Sáng sớm, tôi lại qua chùa để làm công tác quét dọn y như các tiểu
ni ở chùa.
Trong khi đó, mẹ tôi đang lo chuẩn bị mọi
thứ cho tôi để chờ ngày xuất gia. Bà mua vải lam để may đồ vạt khách cho
tôi. Rồi bà đưa tôi ra phố chợ để chọn lựa mua va-li và đồ đạc cá nhân linh
tinh. Nhưng mẹ tôi vẫn chưa quyết định là sẽ cho tôi xuất gia ở đâu. Nha
Trang và các quận lỵ lân cận có rất nhiều chùa. Mẹ tôi chưa biết là chùa
nào, thầy nào sẽ thích hợp cho tôi đến cầu việc xuất gia học đạo. Mẹ tôi rất
tinh tế trong giao tiếp nên chuyện sắp xếp cho tôi xuất gia bà cũng cân nhắc
kỹ lưỡng lắm. Một phần bà muốn tôi xuất gia gặp được chùa tốt, thầy tốt để
tiến tu lâu dài, thành tựu ước nguyện xuất gia cao đẹp; phần khác, bà sợ ư
nguyện xuất gia của tôi chỉ là một ước muốn bốc đồng, nếu cứ lo “chọn mặt
gởi vàng” mà rồi cuối cùng chính tôi lại chịu khổ không nổi đ̣i về nhà th́
mất mặt gia đ́nh. Mẹ tôi cứ phân vân măi chuyện chọn chùa, chọn thầy. Cuối
cùng, bà lựa một ngày tốt trời, dẫn tôi đi thăm vài chùa ở vùng quê cách Nha
Trang từ năm đến mười cây số. Chiều về đến nhà, mẹ gọi tôi đến nói chuyện
riêng:
“Sáng giờ đi mấy chùa rồi, con thấy sao?
Con thích chùa nào nhất? Me thấy chùa thầy Như Pháp ở Suối Hiệp hay chùa
Diên Thọ ở Diên Khánh đều tốt cho con v́ quư thầy ở mấy chùa này rất hiền,
không quá nghiêm khắc và đánh phạt mấy chú tiểu như ở một số chùa khác. Ở
Phật Học Viện Sơ đẳng Linh Sơn con thấy đó, gần một trăm chú tiểu, sống theo
nếp sống tập thể, kỷ luật gắt gao, y như trại lính. Quư thầy đánh phạt dữ
lắm mới giữ được trật tự. Mấy chỗ như vậy e không hợp với con. Con nghĩ sao
nói me nghe để me tính.”
Mẹ vừa dứt lời là tôi trả lời ngay:
“Con thích đi tu ở chùa Hải Đức.”
Mẹ tôi giật ḿnh nói:
“Í, không được đâu. Chùa Hải Đức là Phật
học viện Trung đẳng dành cho mấy chú, các thầy lớn, con có vào đó cũng chỉ ở
tạm một thời gian rồi chuyển qua Phật học viện Sơ đẳng Linh Sơn ở Cầu Dứa
thôi. Mà trên chùa Hải Đức có thầy Phước Châu nổi tiếng đánh điệu ghê lắm.
C̣n thầy Hải Tuệ nói đùa cười cười, chớ nghiêm khắc khó chịu ai cũng kiêng
sợ. Thầy Hải Tuệ c̣n nọc cả quư thầy, quư chú lớn ra mà đánh nữa chứ kể ǵ
mấy điệu nhỏ! Thầy c̣n làm giám viện ở Phật học viện Linh Sơn, các điệu ở đó
bị thầy Hải Tuệ đánh đ̣n đau không dám khóc. Thôi, con ở chùa của thầy Như
Pháp là tốt hơn hết đó.”
“Điệu là ǵ vậy me?”
“Là mấy chú tiểu đó. Ở ngoài Huế gọi chú
tiểu là điệu.”
Tôi hỏi cho biết vậy, xong, suy nghĩ một
lúc rồi cũng cương quyết giữ lấy ư kiến của ḿnh, trả lời rất gọn:
“Me cứ cho con lên chùa Hải Đức đi. Con
thích tu ở chùa khó chứ không thích tu chùa dễ.”
Mẹ nh́n tôi, vừa ngạc nhiên vừa sung sướng.
Bà biết tôi nói thật. Và đến lúc đó bà mới hiểu phần nào chí hướng của tôi.
Không phải tôi bốc đồng. Tôi đă xin xuất gia với một chí hướng rơ rệt, có
suy nghĩ, có đắn đo, chọn lựa trước hẳn hoi. Mẹ xoa đầu tôi, nói:
“Nếu con đă sắp sẵn ư định như vậy th́ me
cho con lên chùa Hải Đức với thầy Hải Tuệ. Hay con muốn quy y thầy nào
khác?”
“Dạ thầy Hải Tuệ.”
Vậy là mẹ tôi lên chùa Hải Đức thưa chuyện
với thầy Hải Tuệ trước. Không hiểu thầy và mẹ tôi đă bàn ǵ về chuyện xuất
gia của tôi mà khi mẹ về, tôi đón hỏi th́ bà chỉ nói rất ngắn:
“Thầy đồng ư nhận con làm đệ tử xuất gia,
nhưng thầy bảo con học thuộc trước hai thời kinh: công phu chiều và công phu
khuya. Thuộc rồi th́ cho thầy biết để thầy chọn ngày có đông đủ quư ḥa
thượng cao đức chứng minh cho ngày con nhập tự xuất gia.”
Nghe vậy tôi mừng rỡ vô cùng, nói với mẹ:
“Con đă thuộc thời kinh công phu chiều và
một nửa thời kinh công phu khuya rồi. Chắc trong ṿng tuần lễ hay nửa tháng
nữa là con thuộc hết hai thời kinh công phu đó me.”
Mẹ nh́n tôi, đôi mắt bà lúc ấy sao khó hiểu
quá. Bà có mừng chứ chẳng phải không, nhưng trên nét mặt bà, tôi cũng thoáng
nhận ra vẻ buồn lo nữa. Có lẽ một phần nào đó trong thâm tâm, bà không muốn
tôi xuất gia, sợ tôi phải chịu cực nhọc gian khổ ở chùa. Đời sống gia đ́nh
tôi không sung túc dư dả ǵ, nhưng ba mẹ tôi nuông chiều các con, đổ hết
tiền của vào việc nuôi con ăn học nên bầy con lúc nào cũng thấy yên ấm, đầy
đủ. Nay thả tôi, một đứa trẻ, ra khỏi ṿng tay đùm bọc của gia đ́nh, làm sao
mẹ tôi khỏi lo lắng, e dè.
Gia đ́nh tôi không phải là một gia đ́nh
giàu có, khá giả. Có thể nói được là một gia đ́nh nghèo đi. Nhưng ít người
tin được rằng gia đ́nh tôi nghèo v́ cái thể diện tối thiểu mà cả nhà từ trên
xuống dưới đều tự động hoặc nhắc nhở nhau lo giữ lấy; v́ thế mà qua bao biến
thiên hoàn cảnh xă hội, của kinh tế gia đ́nh, cái vẻ phong lưu bề ngoài của
gia đ́nh vẫn cứ c̣n đó. Sống theo cái nếp của thời xưa cũ, đó là sinh hoạt
truyền thống của gia đ́nh tôi.
Ba tôi là con một của một vị quan văn triều
Thành Thái, Khải Định. Ông nội tôi không chỉ là một vị quan mà c̣n là hoàng
thân quốc thích. Ông Tuy Lư Vương (hoàng tử thứ mười một con của vua Minh
Mạng) là ông nội của ông nội tôi. Vậy ba tôi gọi ông Tuy Lư Vương bằng ông
cố, và anh chị em tôi gọi bằng ông sơ. Tóm lại, người ta vẫn
thường gọi gia đ́nh tôi là gia đ́nh hoàng tộc. Ba tôi là con trai độc nhất
của ông nội. Ông nội mất khi ba tôi c̣n nhỏ. Bà nội nuôi ba tôi ăn học, rồi
bà nội mất, ba tôi qua sống với bà con chú bác. Sau ba tôi ra làm quan, cũng
là quan văn, ngạch hành chánh, cho thời Bảo Đại, thời chính phủ Trần Trọng
Kim, thời ông Diệm, thời ông Thiệu. Thực ra, không phải cứ là ḍng hoàng tộc
th́ phải giàu sang quyền quư. Con cháu vua Minh Mạng đông vô kể mà thời vàng
son của triều đ́nh họ Nguyễn này đă hết từ lâu rồi, từ trước khi ông vua
cuối cùng là Bảo Đại (Vĩnh Thụy) thoái vị kia. Nhưng cứ xét theo hoàn cảnh
riêng của ba tôi th́ dù ǵ ông cũng có một sản nghiệp tương đối lớn. Các anh
chị lớn của tôi sinh trưởng tại Huế đă thừa hưởng (một thời gian) sự giàu có
của ba tôi. Sau hai lần di cư (vào Quy Nhơn, rồi vào Nha Trang), ba tôi đă
không c̣n ǵ. Ông làm lại từ đầu ở mảnh đất nhỏ Nha Trang, và anh chị em nhỏ
chúng tôi chào đời trên mảnh đất ấy, trong hoàn cảnh ấy của gia đ́nh. Miếng
cũng chẳng c̣n, tiếng cũng phôi pha, chỉ có cái nếp trong nhà, trong ḍng
tộc th́ ba mẹ và anh chị lớn hăy c̣n giữ để truyền lại cho bầy nhỏ chúng
tôi.
Cái nếp ấy được chỉ dạy một cách tỉ mỉ qua
nếp ăn ở và cách tiếp xử với con người, với xă hội chung quanh. Đơn giản
thôi, khi thấy một đứa con trong nhà đem học bạ về mà không xếp được vào
hạng danh dự, ba tôi chê: “Con cháu Thánh Tổ Minh Mạng không được học dở như
vậy đâu. Ráng lên kẻo thiên hạ chê cười cả ḍng họ luôn nghe con.” Khi thấy
một đứa em ăn bận không được tươm tất sạch sẽ, anh chị lớn cũng la rầy: “Con
ba me mà ăn bận như vậy đó hả? Vô thay áo quần khác, mau!” Ăn uống, nói
năng, đi đứng trong nhà hay ở ngoài đường cũng phải theo cái nếp “hoàng
tộc” như vậy. Cho nên, thiên hạ nh́n vào cứ thấy là gia đ́nh tôi giàu
có, phong lưu. Cả một nhà trai thanh gái lịch, ăn mặc đàng hoàng tươm tất,
nói năng lễ phép lịch sự, học hành giỏi giang xuất sắc. Ba tôi ra đường lúc
nào cũng bỏ áo sơ mi vào quần, đầu tóc chải mướt, giầy da bóng lộn. Mẹ tôi
từ ngày về nhà chồng cho đến khi con khôn lớn, không khi nào rời khỏi nhà mà
không mặc áo dài và trang điểm son phấn kỹ lưỡng. Cái nếp nó như vậy đó. Dâu
hoàng tộc th́ phải như vậy như kia. Con cháu hoàng tộc phải như ri như rứa.
Thiếu tiền thiếu bạc chứ không thiếu lễ nghĩa và dáng vẻ cao sang. Bụng có
thể đói được, nhưng mặt mày phải sáng láng, nhân cách phải giữ ǵn. Thanh
bần là hai chữ cha mẹ tôi thường lấy để răn nhắc anh chị em chúng tôi.
Phải, nghèo mà sạch, sạch từ thể chất đến tinh thần. Phải ráng mà giữ. Cái
giàu sang đă mất đi rồi, không gượng t́m lại được nữa. Chỉ c̣n hai chữ
thanh bần đó để mà sống cho đẹp thơm ḍng tộc. Vậy đó mà cuộc sống gia
đ́nh thấy vui tươi. Rồi sống trong nhà, ắt phải quen nếp. Quen nếp th́ thấy
yên ổn, êm ấm, thấy như ḿnh thuộc loại nhà giàu phong lưu vậy.
Chính v́ vậy mà chuyện tôi trốn nhà mấy lần
là một chuyện động trời đối với gia đ́nh. Lại thêm chuyện đ̣i đi tu nữa,
cũng là chuyện lạ thường mà chính những người trong gia đ́nh tôi cũng không
ngờ tới được nói chi những người ngoài. Mẹ tôi, người đă đóng vai dâu hoàng
tộc mấy chục năm, không dám tin rằng một đứa cháu chắt ngài Tuy Lư Vương hào
hoa phong nhă lại đ̣i xuất gia đầu Phật đang khi anh chị em trong gia đ́nh
sum vầy vui vẻ dưới sự đùm bọc của mẹ cha. Lũ con này, từ gái công nương,
đến trai hoàng tộc, học hành chẳng chịu kém sút ai mà ăn chơi cũng đâu chịu
thua thiệt ǵ thiên hạ. Ăn chơi ǵ? Là ca hát, đàn địch, văn thơ, viết vẽ...
tiếng không đồn khắp nước th́ cũng nở rộ lên như những cánh hoa rực rỡ của
xóm nhà Nha Trang. Mỗi đứa mỗi tài, mà tài nào cũng ḷng ṿng trong ngành
văn chương nghệ thuật. Vui quá đi chứ.
Nhà mười bốn đứa con, bảy trai bảy gái, làm
thơ, viết văn, vẽ, đàn ca, chẳng theo trường lớp chuyên môn nào mà tài năng
thi thố với thiên hạ cũng xuất sắc, có nét riêng, đâu vào đó không chê được;
giới nghệ sĩ Nha Trang hay Sài G̣n ghé thăm phải kiêng dè, nể mặt... Cái nhà
văn nghệ đó ai ở Nha Trang mà chẳng biết. Chuyện đói no giàu nghèo th́ khó
đoán định nổi, nhưng chắc chắn một điều là không khí gia đ́nh hẳn là vui
tươi, rầm rộ, tưng bừng. Vậy mà một đứa bỗng đ̣i đi tu. Chuyện lạ thường. Mẹ
phải e dè suy nghĩ lại nhiều lần, dù rằng đă hứa cho nó đi tu, đă sắm sửa đồ
đạc chờ ngày nó lên đường.
Anh lớn của tôi, người được coi như là một
cảnh sát viên tận tụy với bổn phận bảo vệ nề nếp gia đ́nh, là người chống
đối chuyện đi tu nhiều nhất. Anh tin Phật, như ông bà cha mẹ đă tin. Nhưng
trong cái nh́n của anh, chuyện xuất gia đầu Phật h́nh như là chuyện của
những đứa bé chăn trâu, những đứa bé mồ côi ở cô nhi viện hay lũ trẻ bụi đời
cù bơ cù bấc, chứ không phải là một đứa em trong gia đ́nh này. Cho nên
chuyện đi tu của tôi làm cho anh phải xấu hổ với bạn bè anh, nhất là các cô
bạn gái. Có một người trong gia đ́nh xuất gia vào chùa th́ tự dưng cái nhà
này kém vẻ văn minh tiến bộ đi một chút th́ phải. Rơ ràng anh muốn cản tôi
một phần v́ thương, không muốn tôi khổ sở ở chùa nhưng một phần cũng v́ thể
diện, v́ cái nếp mà anh từng ǵn giữ cho gia đ́nh. Có lẽ anh nghĩ rằng một
đứa em đi tu sẽ chứng tỏ với thiên hạ rằng gia đ́nh này không có ǵ vui thú,
hấp dẫn hay sự sung túc vật chất để giữ chân nó. Những lần trước, ba mẹ tôi
không chấp thuận cho tôi đi tu là cũng có ư kiến anh góp vào một phần. Nhưng
lần này, dù đă hết sức chống đối, anh cũng không cản được tôi, v́ ḷng tôi
đă quyết, và ba mẹ tôi cũng đă vui ḷng ưng thuận.
a
Ngày tôi xuất gia là ngày mồng một tháng
năm âm lịch, sau lễ Phật Đản nửa tháng. Lúc đó Tăng Ni các chùa đă nhập hạ
an cư. Chùa Hải Đức là một Phật học viện nên tập trung các thầy đông nhất,
trên hai trăm vị. Các vị ḥa thượng, thượng tọa cũng như các thầy từ các
chùa lân cận cũng tập trung tại chùa Hải Đức mỗi trưa để cúng quá đường và
làm lễ cầu an, cầu siêu.
Mẹ tôi đă cho thuê một chiếc xe lam từ ngày
hôm trước để gia đ́nh cùng đưa tôi lên chùa. Nhưng ngày đó không phải là
ngày cuối tuần nên ba tôi không đi được, các anh chị em khác th́ bận đi học,
đi làm, chỉ chia tay tôi tại nhà rồi thôi. Mẹ tôi, hai người chị và hai đứa
em gái theo xe đưa tôi lên chùa. Ba tôi ôm hôn tôi trước khi ông đến sở.
Không có vẻ ǵ cho thấy là ông lo buồn chuyện xuất gia của tôi cả. Lúc đó
tôi chợt nghĩ rằng có lẽ ư định ngăn cản không cho tôi đi tu trước đây là do
mẹ chứ không phải là do ba tôi. Sau này, tôi c̣n biết rằng mỗi lúc có việc
quan trọng trong gia đ́nh, ba tôi thường chỉ góp ư, bàn luận thêm, nhưng rồi
cũng thường lấy quyết định tối hậu của mẹ tôi mà thôi. Tính t́nh ông hiền
ḥa, nhũn nhặn, cởi mở, một ḷng cưng chiều vợ mà cũng một ḷng cưng chiều
con; lư đâu tôi quyết tâm đi tu mấy lần ông lại ngăn cản không cho!
Ba tôi tắm rửa từ sáng sớm, thay áo quần,
ăn sáng, rồi tiến đến chỗ tôi, hiền lành nắn bóp đôi vai tôi, đặt những nụ
hôn lên tóc tôi, rồi nói đôi câu khích lệ:
“Ḍng họ nhà ḿnh thuần thành tin Phật từ
bao nhiêu đời rồi nhưng hiếm có người nào đi tu. H́nh như chỉ có duy nhất sư
cô Trí Hải là thuộc gịng Tuy Lư nhà ḿnh thôi. Nhưng cô ấy xuất gia khi
tuổi đă trưởng thành. Nay con là người thứ hai, mà con hăy c̣n nhỏ quá, chắc
là khó khăn khổ nhọc, nhưng ba tin con trai của ba sẽ vượt qua được. Lâu lâu
con xin phép thầy về thăm nhà nghe. Bây giờ ba phải đi làm. Hôn ba một cái
đi. Bên này cái nữa...”
Ba tôi ra sân. Tôi bước theo ông ra cổng,
nh́n theo dáng ông gầy g̣ mất hút ở cuối đường. Tôi ứa nước mắt quay vội vào
trong.
Không phải đă chọn được lối đi th́ không
c̣n băn khoăn đau khổ. Khi cha-con tôi ôm nhau lần cuối vào phút từ biệt,
tôi mới sực nhận biết rằng nỗi khó khăn cực nhọc nhất của một đứa trẻ khi
xuất gia là sự chia cắt nhiều ngày với gia đ́nh thân thuộc, nhất là phải
chia cách với cha mẹ, những suối nguồn dạt dào thương yêu mà dù cho bầy con
mười bốn đứa hay hai chục đứa có tận hưởng suốt đời cũng không vơi cạn
mất...
Khi bước ra xe lên đường, tôi nh́n qua chùa
sư nữ, thấy các tiểu ni đứng nơi cổng chùa hướng về phía tôi, đưa tay vẫy.
Tôi vẫy tay đáp lại họ.
Xe chuyển bánh. Mẹ ngồi bên tôi, dặn ḍ đôi
điều, thỉnh thoảng lại vuốt tóc tôi. Các chị và em gái tôi ngồi ở băng ghế
đối diện nh́n qua, ai cũng im lặng ứa nước mắt. Lúc sống bên nhau, chúng tôi
ít có dịp nào để tṛ chuyện hay tâm sự với nhau. Nhà tôi con đông, nhiều
lứa, thân với nhau th́ cũng chia thành cặp đôi, cặp ba: trai chơi với trai,
gái chơi với gái, lớn với lớn, nhỏ với nhỏ. Đâu phải cứ là chị em th́ phải
thân mật và hiểu nhau hết. Vậy mà bây giờ tiễn đưa tôi lên chùa, các chị đă
không kềm được xúc động. Như thể chuyến đi này sẽ thật sự cắt đứt những cơ
hội cho t́nh cảm anh chị em được bộc lộ một cách b́nh thường. Tôi chỉ lặng
lẽ quan sát các chị, rồi nh́n cảnh vật hai bên đường chứ không bận tâm điều
đó lắm. Tôi cũng không khóc hay xao xuyến nhiều v́ chuyện chia tay này. Tôi
đang nôn nao phóng nhanh một bước vào thế giới mới lạ có khoảng trời bao la
phất phơ mây trắng. Thế giới đó từng hiện hữu trong những giấc mộng sâu kín
của tôi, nay sắp trở thành hiện thực. Chỉ một chốc nữa thôi, khi chiếc xe
này ngưng bánh, tôi sẽ bước vào đó.
a
Từ quốc lộ số một, xe quẹo vào một con
đường đất rộng. Con đường mang tên chùa Hải Đức. Hai bên đường là nhà cửa
lưa thưa nhưng đa phần nhà gạch hoặc nhà đúc. Chỉ một khoảng gần chân núi là
nguyên một dăy nhà tôn, nhà lá lụp xụp của những người mới đến tại đây. Vài
hàng quán lẻ tẻ mọc lên ở khoảng đó. Người ta gọi xóm này là xóm Xưởng. Đến
sát chân núi hơn th́ con đường trở thành như một bờ đê cao, hai bên là vườn
rau--phải nói ruộng rau mới đúng v́ quá rộng--với những luống cải xanh thẳng
tắp được chăm sóc kỹ lưỡng bởi những người làm vườn chuyên nghiệp. Mẹ tôi
nói rau canh tác ở đây cung cấp một số lượng khá lớn cho các khu chợ Nha
Trang. Cuối đường đê đó, quẹo phải là dẫn đến chùa Phước Điền--một
ngôi chùa nhỏ xíu nằm giữa ruộng rau như một ḥn đảo lú lên giữa sông nước;
quẹo trái là lên con dốc chính dẫn đến chùa Hải Đức.
Cổng sắt của chùa Hải Đức mở sẵn. Qua khỏi
cổng là bắt gặp ngay kho gạo của chùa Hải Đức nằm phía bên phải. Nhà kho
phải xây dưới chân núi để xe ra vào chất gạo chất củi cho dễ. Nơi đây có một
ngôi nhà ngói rộng, gọi là Tịnh Nghiệp đường dành cho các phật tử thân tín
của chùa đến nghỉ lại đêm để tu học vào những ngày trai, và một pḥng để quư
thầy cất xe đạp, xe gắn máy, khỏi phải dắt lên núi. Phía bên trái của nhà
kho là ga-ra lợp tôn, dành cho các xe hơi và xe gắn máy của chùa.
Mẹ con tôi cùng h́ hục leo dốc. Đường dốc
đá lởm chởm, mẹ và các chị tôi phải bước khó nhọc và cẩn trọng v́ mang guốc
cao. Hết khoảng dốc đá th́ con đường tẻ làm hai, một đường vẫn là dốc đá dẫn
đến mặt tiền của chánh điện chùa; một đường là tam cấp trăm bậc dẫn đến
pḥng khách và nhà bếp. Mẹ đưa tôi đi đường tam cấp để bái kiến thầy Hải Tuệ
trước. Dọc đường đi, vài người hành khất ngồi yên lặng, lật nón để sẵn trước
mặt. Phật tử đến chùa lên xuống tấp nập. Tự dưng tôi thấy ái ngại. Lần trước
đến chùa, tôi không bắt gặp không khí nhộn nhịp này.
“Sao đông quá vậy me?” tôi hỏi mẹ.
“Th́ gặp mùa an cư kiết hạ, ngày nào cũng
có cúng quá đường, quư thầy lại cấm túc chẳng đi đâu nên phải đông chớ. Hơn
nữa, hôm nay là mồng một mà. Đừng ngại, rồi con sẽ quen. Phật tử cũng như me
và mấy chị, đến rồi về chứ đâu có ở hoài trên chùa đâu. Sau lễ th́ chùa yên
vắng trở lại ngay.”
Chùa Hải Đức là tên gọi của chùa khi chưa
lập nên Phật học viện. Từ ngày Phật học viện ra đời, người ta quen gọi Phật
học viện Hải Đức, hoặc gọi tắt “chùa viện” hay chỉ gọi một tiếng là “viện”.
Thầy Hải Tuệ làm chức giám sự của Phật học viện. Chức này chịu trông coi mọi
sinh hoạt lễ lược, chịu trách nhiệm quản lư động sản và bất động sản cũng
như vấn đề thu nhập và chi xuất tài chánh của chùa. Đặc biệt là ở viện Hải
Đức này, chức vụ giám sự rất quan trọng và trở thành một chức vị giống như
trụ tŕ một ngôi đại ṭng lâm. Trên chức giám sự chỉ có chức giám viện do
Ḥa thượng Thích Trí Thủ đảm trách. Nhưng Ḥa thượng là Vụ trưởng Vụ Hoằng
Pháp thuộc Viện Hóa Đạo của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, phải túc
trực tại Sài G̣n để điều hành nhiều phật sự của Giáo hội trung ương nên mọi
việc ở viện Hải Đức đều giao cho thầy giám sự chăm sóc.
Dăy hiên của tổ đường có bốn cái bàn, được
coi như pḥng khách tạm thời trong những ngày lễ lớn. Phật tử lăng xăng lui
tới. Thấy mẹ con tôi đến, thầy Hải Tuệ gát công việc đang bàn với khách, mời
mẹ con tôi vào trong tổ đường. Mẹ bảo các chị và hai đứa em gái tôi đứng lại
ở bên ngoài, rồi mẹ kéo tôi theo thầy vào Tổ đường. Thầy thắp nhang rồi đứng
một bên chuông, chờ mẹ tôi thưa chuyện. Mẹ tôi sụp lạy thầy, tôi lạy theo.
Thầy khoát tay bảo đừng nhưng mẹ con tôi cứ lạy cho đủ lễ. Lạy xong, mẹ tôi
quỳ nghiêm, chắp tay thưa thầy:
“Nam mô A Di Đà Phật, hôm nay con đưa con
trai của con đến cầu xin thầy tiếp độ cho nó được xuất gia theo chân thầy để
học đạo giải thoát.”
Nghe lời mẹ thưa, tôi bàng hoàng như bị
chấn động ở tận đáy sâu tâm thức ḿnh. Ước vọng lâu nay của tôi là t́m đến
một thế giới, hay một cơi nào đó mới lạ, khác với cuộc sống buồn tẻ nhạt
phèo của nhân sinh, nhưng tôi không thể hiểu và không thể diễn đạt bằng lời
cái ước vọng sâu kín đó của ḿnh. Nay mẹ tôi thưa tŕnh với ngôn ngữ và cách
hiểu của bà, tôi mới sực thấy rơ rằng thực ra tôi muốn ǵ. Phải, tôi muốn
giải thoát. Hai chữ ấy tôi không hiểu tường tận và cũng chưa hề dùng đến bao
giờ, nhưng khi nghe nó, tôi biết đúng là nó chứ không phải chữ nào khác
thích hợp hơn với sự mong cầu của tôi.
Thầy từ tốn hướng về tôi dạy rằng:
“Con đường xuất gia là con đường chông gai
mà chỉ có những kẻ có chí xuất trần cực mạnh mới vượt qua nổi. Tuổi nhỏ như
con mà phát tâm xuất gia là điều đáng quư, đáng khen. Nhưng nếu không hết
ḷng nương theo thầy tổ để tu học th́ đạo lớn sẽ khó kham nhận được. Thay
mặt chư tăng, thầy hoan hỷ tiếp nhận con nhập chúng để học hạnh xuất gia.
Con đứng dậy lạy tổ đi.”
Tôi và mẹ cùng lạy tổ ba lạy. Xong, thầy
bảo mẹ con tôi theo thầy bái kiến Ḥa thượng chùa Từ Quang, vị ḥa thượng
cao đức chứng minh đạo sư của Phật học viện. Ḥa thượng pháp tự là Thích
Phúc Hộ, là viện chủ tổ đ́nh Từ Quang ở Phú Yên, nên mọi người đều gọi ngài
là Ḥa thượng Từ Quang (tránh gọi thẳng pháp tự của ngài để tỏ ḷng tôn
kính). Mỗi năm Ḥa thượng từ Phú Yên vào Nha trang để nhập hạ an cư tại đây
ba tháng (từ rằm tháng tư, ngày Phật đản sanh, đến rằm tháng bảy, lễ Vu
Lan).
Ḥa thượng ngồi trên trường kỷ ở pḥng
khách tăng, bên hông phải của chánh điện. Thầy tôi vào trước tŕnh Ḥa
thượng. Ḥa thượng bảo tôi đến gần. Tôi quỳ sát bên ngài để lắng nghe chỉ
dạy. Một tay xoa đầu tôi ngài nói:
“Đáng khen, đáng khen! Con giỏi lắm. Tuổi
nhỏ mà đă phát chí xuất trần là việc hy hữu. Thầy hy vọng con đủ chí đủ lực
để đi trọn con đường mà chư Phật chư Tổ soi mở. Xuất gia là ǵ? Tổ Quy Sơn
có nói, ‘phù xuất gia giả phát túc siêu phương, tâm h́nh dị tục, thiệu
long thánh chủng, chấn nhiếp ma quân...’ nghĩa rằng, người xuất gia là
kẻ cất bước hướng tới một ṿm trời siêu tuyệt với tâm tính và h́nh dung khác
với thế tục, để tiếp nối và làm hưng thịnh cho gịng giống của Phật Thánh,
làm kinh động và thu phục ma quân. Con đường xuất gia chí thượng cao cả như
vậy, con phải nỗ lực, quyết tâm mới thành tựu được sự nghiệp.”
Tôi cúi lạy Ḥa thượng mà ứa nước mắt. Tôi
khóc. Tôi chẳng hiểu v́ sao tôi khóc. Lời lẽ của vị ḥa thượng già mới lần
đầu tiên được bái kiến tôi nghe như âm vang thân thuộc vọng về từ một tiền
kiếp xa xưa nào. Nghe như có tiếng chuyển động ầm ́ của sóng, của nước, vỗ
vào băi tâm hoang sơ của tôi.
Thầy Hải Tuệ bảo tôi lạy tạ Ḥa thượng. Tôi
cùng mẹ quỳ lạy ngài ba lạy nữa rồi lui ra. Trở lại pḥng khách, tôi gặp hai
chú tiểu đang ngồi cầm kinh nhật tụng, vừa học vừa giỡn. Thấy thầy Hải Tuệ
bước xuống, hai chú lảng ra xa, làm bộ cắm cúi đọc to tiếng lên. Thầy vào
pḥng khoác y áo chuẩn bị làm lễ. Trở ra, thầy bảo các chú tiểu hướng dẫn
tôi mang hành lư vào pḥng dành cho các chú tiểu. Hai chú đưa tôi đi ṿng
sau dẫy nhà thờ các vị Tổ sư, Tăng Ni đă viên tịch, nằm đâu lưng với nơi thờ
Phật nên gọi là hậu tổ. Rồi vào một dẫy pḥng sát hông trái với chánh điện
là pḥng dành cho các chú tiểu. Chỉ có bốn cái đi-văng (ở chùa gọi là cái
đơn tức là cái giường nhỏ chỉ nằm được một người). Một chú bảo tôi cứ để
hành lư ở đầu một cái đơn, chuyện ngủ ở đâu th́ tối có thầy quản chúng sắp
đặt. Cất hành lư xong, tôi lại theo các chú trở ra pḥng khách. Lúc này,
thầy đă vào nhà hậu tổ rồi lên trai đường làm lễ. Mẹ và các chị em của tôi
cũng theo các phật tử khác đi lạy cúng trai tăng ở trai đường. Tôi ngồi lại
với hai chú tiểu ở pḥng khách.
Hai chú tiểu đều nhỏ tuổi hơn tôi. Một chú
tên Dũng, một chú tên là Sung. Chú Dũng nhỏ thua tôi một tuổi. Chú Sung nhỏ
thua tôi hai tuổi. Chú Dũng là đệ tử của thầy Phước Châu, vị thầy giữ chức
quản chúng của Phật học viện--vị quản chúng thường là một vị thầy trẻ tuổi,
gần gũi học chúng, chịu trách nhiệm phân công, điều hành những công tác và
sinh hoạt thường nhật của học tăng, làm viên gạch nối giữa ban lănh đạo Phật
học viện với các học tăng này. Chú Sung là đệ tử của thầy Hải Tuệ, tức là
cùng một thầy với tôi--trong chùa gọi là huynh đệ đồng sư. Chú Dũng cao, ốm
tong ốm teo, hai tay hai chân dài như vượn. Mặt chú dài, cằm nhọn, miệng
cười rộng sát mang tai, mắt sáng long lanh, hai tai to vểnh ra như tai dơi.
Chú Sung gọi chú Dũng là Dũng c̣, có khi gọi là Dũng
ṛm. Chú Sung th́ thấp người, da dẻ đen sạm trông rắn chắc như dân làm
ruộng ở quê lên. Mặt chú tṛn vin, miệng nhỏ môi mỏng, hai mắt to tṛn, sáng
và lộ ra như hai trái nhăn. Đáp lại chú Sung đă gọi ḿnh là Dũng c̣,
chú Dũng gọi chú Sung là Sung mèo-có khi gọi tắt hơn: mèo,
chắc là nói gọn cho Sung mắt mèo.
Tôi ngồi nơi pḥng khách với hai chú mà
chẳng biết nói ǵ. Các chú cũng chẳng biết nói ǵ với tôi nên cứ giỡn với
nhau để tôi ngồi trơ đó mà ngó, mà nghe. Hai chú thật liếng thoắn, lăng
xăng, đứng ngồi không yên. Tâm tư tôi lúc đó hăy c̣n bập bùng kích động bởi
những lời dạy của Ḥa thượng Từ Quang và thầy Hải Tuệ nên tôi không sao đùa
giỡn và ḥa vui được với các chú ngay. Tôi tự hỏi, không lẽ mai này ḿnh lí
lắc lí lưởi như mấy chú tiểu này sao? Phải có cái ǵ khác chớ? Sao các chú ở
chùa mà chẳng có ǵ khác biệt với mấy đứa trẻ bên ngoài hết vậy ḱa? Tôi
không lớn hơn các chú bao nhiêu, vậy mà tôi bỗng trở nên ông cụ, ngồi im mà
nh́n bầy trẻ đùa giỡn. Một chặp, hai chú rủ tôi xuống nhà bếp ăn cơm. Tôi
miễn cưỡng bước theo.
Giữa nhà khách và nhà bếp có hai pḥng ăn
nhỏ để dọn cơm cho các chú tiểu và thập phương bá tánh. Chú Dũng bảo tôi
ngồi đợi ở pḥng ăn này. Hai chú xuống bếp kiếm cơm thế nào đó mà bưng lên
nguyên một mâm với ba thau cơm thật bự. Không phải là các thau đầy cơm, chỉ
lưng thau thôi. Món mít kho, món cải xào với đậu hủ và món canh rau muống
cũng đổ chung vào đó. Chú Dũng đưa tôi một thau cơm, chú và chú Sung mỗi
người một thau khác. Tôi ngán ngẩm bưng thau cơm đồ sộ lên, nh́n hai chú ấy
bắt đầu ăn mà thấy khiếp sợ. Đă vậy, trong thau chỉ có vật dụng duy nhất để
múc ăn là cái vá thật lớn mà người ta dùng để xúc cơm chứ không phải là cái
muỗng nhỏ. Thật khó cho tôi phải ăn bằng cái vá xúc cơm với một thau cơm
bành ki như vậy. Nhưng tôi phải ăn thôi. Tôi nghĩ bụng chắc mấy chú tiểu ở
đây đều ăn kiểu đó. Các chú được chùa dạy cho chuyện ăn uống như là chuyện
chẳng quan trọng ǵ nên ăn sao cũng được, chẳng cần thứ lớp ngăn nắp hay bày
biện lễ nghi ǵ cho mệt. Th́ thôi, các chú ăn được th́ tôi cũng phải ăn
được. Vậy là xúc cơm ăn ngon lành. Hai chú xúc cơm ăn ào ào, thau muỗng chạm
leng keng, lổn cổn. Chỉ một thoáng là thau cơm của hai chú cạn láng. Tôi đâu
có đuổi theo kịp. Dù sao cũng là người mới đến, tôi ăn chậm răi, từ từ mà
xúc, cố gắng đưa cơm và đồ ăn vào miệng sao cho gọn, đừng đổ văi. Hai chú ăn
rồi, ngồi chờ tôi một chút, thấy lâu quá, bèn đứng dậy trước, bỏ tôi ngồi
một ḿnh. Cũng may pḥng ăn lúc đó chẳng có ai. Mọi người đều đi làm lễ.
Buổi cơm chay đầu tiên cho ngày xuất gia thấy lạ miệng, thật ngon nhưng hơi
ngộ nghĩnh v́ thau cơm và cái vá trông khiếp quá.
Tôi đang ăn đến vài muỗng cuối cùng
th́ có một thầy trẻ từ đâu đi tạt ngang. Sau này tôi biết là không phải tất
cả quư thầy đều đi làm lễ, mà phải có một vài thầy ở ngoài để trực, coi
chùa, tiếp khách, dọn dẹp trai đường v.v... Thấy tôi ngồi ăn bằng thau với
cái vá xúc cơm to bự như thế, thầy tức cười dừng lại nh́n, hỏi han. Tôi nói
tôi mới đến chùa xuất gia hôm nay. Thầy hỏi tôi ai dọn cơm cho tôi ăn. Tôi
thật thà nói hai chú Dũng và Sung. Thầy xuống gọi hai chú lên la rầy một
lúc. Té ra không phải các chú tiểu ở đây ăn bằng thau và vá cơm lớn. Chỉ v́
các chú lười biếng không chịu chờ đợi cô Bảy và chú Đông (những người làm
công quả dưới bếp) rửa chén bát mà lấy đại những thau muỗng nào c̣n úp trong
rổ. Cũng may thầy la trong giọng vui vẻ, chỉ nhắc các chú đừng lười biếng
vậy thôi chứ không đánh phạt ǵ. Các chú không giận ǵ tôi chuyện đó, rủ tôi
đi chơi. Tôi không biết tôi có được phép đi chơi với các chú không. Nhưng
không theo các chú th́ biết làm ǵ, ngồi đâu, đứng đâu, v́ vậy cứ phải theo.
Các chú dẫn tôi lên tháp chuông cũ ở gần
bệnh xá. Ở đây có gió mát rượi. Ngọn gió từ đâu nghe mát và mằn mặn như là
gió biển. Chung quanh là những cây phượng vĩ to cao, hoa nở đỏ rực. Nhưng từ
các ven rào cho đến các gốc phượng, tôi thấy nhiều cây xương rồng ḅ khắp
leo lên cả những nhánh phượng trên cao. Dũng nói đó không phải là cây xương
rồng mà là cây thanh long. Thanh long trên núi này mọc nhiều lắm. Loại này
cũng dễ mọc nên có thầy chiết nhánh trồng thêm ở nhiều nơi quanh chùa. Lần
đầu tiên tôi nh́n thấy thanh long đỏ chín trên cây. Nhưng thanh long là loại
trái cây ngọt lờ lợ mà lại đầy hột nên tôi không bao giờ có hứng thú để ăn.
Dù vậy, khèo hái thanh long với các chú th́ cũng thích thật. Dũng và Sung bẻ
cây táo nhơn ở ven rào để làm sào. Các chú bứt các dây leo quanh đó để buột
một cái ngàm thật chắc ở đầu sào. Có sào rồi, chú Sung leo lên một cây
phượng gần tháp chuông. Chú Dũng và tôi đứng dưới chuyền cây sào lên và chỉ
cho chú Sung thấy những trái thanh long ở đâu. Dũng đang chỉ chỏ la hét như
vậy bỗng xuỵt một tiếng, kéo tôi núp vào sau tháp chuông.
Tôi hỏi nhỏ chú Dũng:
“Sao vậy? Tại sao phải trốn?”
“Xuỵt có thầy nào đi ngang ḱa.”
“Thầy th́ sao, bộ thầy không cho ḿnh hái
trái sao?”
“Không. Xuỵt!”
Trong khi tôi và chú Dũng im lặng trốn nấp
th́ chú Sung ở trên cây không biết, cứ tiếp tục la hét ỏm tỏi:
“Đâu có thấy trái nào đâu? Chỉ coi. Dũng!”
Vị thầy kia đi ngang nghe được tiếng chú
Sung trên cây th́ ghé lại, đứng dưới gốc cây phượng chỉ lên, nói:
“Ḱa, một trái đỏ loét ḱa!”
Chú Sung ở trên cây nghe tiếng người lớn
th́ hết hồn, tụt mau xuống định trốn. Cũng may thầy kia hiền quá, chỉ đứng
ngó chú Sung mà cười. Rồi thầy bảo cứ hái đi, thầy chẳng mét ai đâu. Nói
xong thầy đi mất. Lúc đó Dũng mới kéo tôi rời khỏi chỗ nấp để trở lại với
chú Sung. Nhưng tôi không thích chơi tṛ hú tim nữa. Tôi không thích hái
trộm một thứ trái ḿnh chẳng thích, chẳng ăn, để rồi mang tiếng nghịch ngợm.
Dũng và Sung tiếp tục hái, tôi đứng gần đó hỏi:
“Tại sao thanh long mọc nhiều quá mà ḿnh
không được hái, thấy mấy thầy lại trốn. Bộ chùa cấm hái trái cây sao?”
“Đâu có, ở đây thiếu ǵ trái! Ổi, xoài,
mít, măng cầu xiêm, măng cầu gai, ô-ma, sa-bô-chê... tùm lum hết, muốn ăn
th́ hái ăn, đâu có ai biết. Nhưng hái thanh long th́ hái những trái mọc
hoang ngoài núi chứ hái khu vực này không được v́ trái ở đây là để dành cúng
Phật. Cúng xong là dọn cho đại chúng dùng.”
“Ḿnh có phải đại chúng không?”
“Đại chúng chắc là nói mấy thầy lớn. Nhưng
tụi ḿnh cũng ăn ké đại chúng được. Cũng như ăn cơm vậy thôi, đâu phải đại
chúng có cơm c̣n ḿnh không có.”
“Vậy th́ hái làm chi, chờ mấy thầy cúng
Phật xong rồi ăn. C̣n không ḿnh ra ngoài núi hái, đừng hái ở đây bị la đó.”
Dũng cười nói:
“Trời ơi! Ăn thanh long mà chờ! Bây giờ mấy
thầy đang làm lễ th́ ḿnh hái chớ. C̣n ra ngoài núi cũng chưa chắc là có
trái. Có bao nhiêu người ta ở dưới núi cũng lén hái hết trơn rồi đâu để tới
phiên tụi ḿnh.”
Sung ở trên cây cũng tiếp lời:
“Thanh long dọn trên bàn ăn, mỗi người được
một miếng chớ mấy. Hái ngoài này ăn đă hơn.”
Nói đến đó th́ Sung cũng vừa khèo được một
trái thanh long lớn. Chú Dũng đứng dưới đón lấy. Hái đủ ba trái, Sung leo
xuống. Cả ba chúng tôi đi t́m chỗ mát và kín để ngồi ăn. Tôi chỉ ngồi ngó
hai chú ăn chứ không ăn được thứ trái cây này. Thanh long chín đỏ, lột vỏ dễ
như lột vỏ chuối. Hai chú ngồi ăn ngon lành. Trái c̣n lại, hai chú lại chia
nhau ăn. Ban đầu thấy hai chú hạm ăn quá tôi hơi nản. Nhưng chỉ sau một lúc,
tự dưng tôi thấy vui lây.
Lâu nay tôi cứ ngỡ một chú tiểu ở chùa th́
phải đạo mạo, lim dim như một chú tiểu đồng hầu hạ tiên ông ở cơi tiên. Tôi
ngỡ rằng những chú tiểu ở chùa sẽ không bao giờ có các tṛ chơi, các thú vui
và những ham thích mà những đứa trẻ ngoài đời đang có. Từ những ngày biết
ḿnh sắp xuất gia, tâm tư và phong cách của tôi đă có vẻ như sẵn sàng để
chịu đựng và thích nghi với cuộc sống khuôn khổ, nề nếp của cửa chùa mà mẹ
tôi và các sư cô ở chùa sư nữ có nói trước. Tôi cứ nghĩ là ngay ngày đầu
tiên bước vào chùa là tôi đă trở thành một tu sĩ, chấm dứt mọi thói đời. Bây
giờ, ngồi cạnh hai chú tiểu này, tôi mới thấy rằng, con đường xuất gia cao
đẹp lắm, nhưng cũng phải bước đi bằng những bước b́nh thường. Không phải ai
ở chùa cũng đạo mạo, uy nghiêm. Trước mắt tôi là hai chú tiểu, chỉ khác với
những đứa trẻ bên ngoài ở h́nh thức. Tâm tư tôi lúc ấy giống như tâm trạng
của một con chim đă chui vào lồng nhưng thấy cửa lồng không đóng, nó nhảy vô
nhảy ra, chưa biết làm ǵ. Vừa hân hoan, vừa hụt hẫng. Thôi th́ các chú sống
sao ḿnh sống vậy.
Tôi phải sống với lứa tuổi của tôi.