CHƯƠNG TÁM
Phật học viện Hải Đức
là trường đào tạo học tăng trong lứa tuổi và tŕnh độ của thầy Châu, thầy
An, thầy Thông Chánh… chứ không phải cho bọn tiểu loai choai như chúng tôi. V́
vậy, tiểu ở viện chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Sung lại bỏ về, bây giờ chỉ
c̣n Sang, Thỏa, Thiệt, Xuân, Dũng, Kính, Thông, Sáng và tôi. Chín người.
Trong số chín người đó, chỉ có bốn là xin theo học lớp Sơ đẳng Phật học tại
Phật học viện Linh Sơn. Việc tham gia lớp học Sơ đẳng này không bị bắt buộc.
Các chú Sang, Xuân, Thỏa th́ thuộc lứa tiểu lớn; c̣n Thiệt và Thông (tuy
cũng lớn nhưng tŕnh độ thấp ngang chúng tôi) th́ không muốn đi. Cho nên,
mỗi chiều vào giờ phóng tham, chỉ có bốn đứa chúng tôi (Dũng, Kính, Sáng và
tôi) cùng cuốc bộ từ viện Hải Đức đến viện Linh Sơn ở Cầu Dứa. Hai viện cách
nhau chừng bốn cây số. Đi bộ khoảng hơn nửa giờ th́ tới nơi. Ngồi nghỉ mệt
đâu chừng nửa giờ nữa th́ đến giờ học.
Ngày đầu, thầy quản
chúng đưa chúng tôi vào lớp, những ngày kế, chúng tôi tự động đi học. Nhưng
Phật học viện Linh Sơn có gần một trăm chú tiểu với nhiều lứa tuổi khác nhau,
từ năm sáu tuổi cho đến mười sáu mười bảy tuổi, nên tŕnh độ học của các chú
rất chênh lệch, khó có thể có được một tŕnh độ học thống nhất và hoàn hảo.
Ban giám học Phật học viện đă chia các chú tiểu ở đây thành hai, ba lớp. Có
môn học chung, có môn học riêng. Thầy quản chúng của viện Hải Đức đảm trách
môn Lịch sử Phật giáo tại đây vào một tối trong tuần. Ngày thầy ấy dạy, bọn
tiểu ở Hải Đức chúng tôi theo thầy đi, rồi theo thầy về; c̣n những ngày
không có thầy, chúng tôi đến học rồi xin ở lại cho đến trời mờ sáng mới về
lại Hải Đức. Nguyên do phải xin ở lại chẳng ǵ khác hơn là sợ ma. Phật học
viện Linh Sơn nằm ở vùng quê, chung quanh là ruộng. Từ quốc lộ vào đến viện
Linh Sơn cũng mất gần một cây số trên một con đường ngoằn ngoèo không có
điện đường mà chỉ có những bụi tre hay những bụi rậm um tùm. Lúc đi th́ mặt
trời sắp lặn, trời hăy c̣n sáng, chúng tôi đâu có sợ ǵ nhưng lúc về th́ đă
tám, chín giờ tối, con nít như chúng tôi thực t́nh là chẳng dám đi. Rừng
nào cọp nấy thôi! Ở viện Hải Đức cũng có những khoảng núi rừng rậm rạp,
rắn rít, khỉ, sóc v.v… nhưng chúng tôi đă quen, không thấy sợ. Các chú tiểu
ở Linh Sơn th́ quen thuộc với cảnh đêm của vùng Cầu Dứa. Cũng may là mỗi
tuần chúng tôi cũng chỉ học có ba đêm với các môn Hán văn, Luật Sa-di và Lịch
sử Phật giáo. Một đêm theo thầy quản chúng về, hai đêm kia mới ở lại. Tuy
vậy, cũng có lúc mặt trời lặn sớm hay v́ chúng tôi đi hơi trễ nên mới ngang
khúc đường ruộng gần viện Linh Sơn th́ mặt trời đă lặn hẳn, đường đi mờ mờ
mịt mịt, chúng tôi phải nín thở niệm Phật, niệm thần chú mà bước.
Có lần, Sáng đi chậm
quá cứ lọt măi phía sau, chúng tôi đi một chặp lại phải đứng chờ; Kính và
Dũng bực quá liền bàn nhỏ với tôi là hè nhau chạy để Sáng sợ mà chạy theo
cho mau. Lúc đầu tôi không đồng ư, nhưng thấy chuyện này cũng là tṛ vui chứ
chẳng hại ǵ nên khi Kính và Dũng vừa la lên “Ma” rồi vụt chạy trước,
tôi cũng chạy theo. Ba đứa vừa chạy vừa cười, vừa ngoái đầu nh́n lại coi
Sáng thế nào. Nhưng ông Phật con có tên là Sáng này cũng ĺ lắm. Thấy bọn
tôi bỏ chạy trước, ông hơi nhớm chân một chút, tính chạy theo rồi lại đổi ư,
cố gắng giữ b́nh tĩnh, niệm “Án ma ni bát di hồng” mà thủng thỉnh
bước. Kính và Dũng thấy chuyện dọa ma không kết quả (v́ chữ “ma” hăy
c̣n trừu tượng, khái quát quá th́ phải!) nên đứng lại từ xa, gợi lên những
h́nh ảnh rơ rệt hơn:
“Có ai ngồi trong bụi
tre ngó ra ḱa!”
Ông Phật con chưa nao
núng, vẫn bươc từ từ, nhưng niệm chú dồn dập hơn:
“Án ma ni bát di hồng,
án ma ni bát di hồng…”
Dũng bèn chêm vào thêm
một câu:
“Có con ma ngồi dưới
ruộng le lưỡi lên ḱa!”
Ông Phật con vẫn chưa
chịu chạy, nhưng chân bước nhanh hơn một chút, miệng niệm thầy chú lia lịa:
“Án ma ni bát di hồng,
Án ma ni bát di hồng, Án ma ni bát di hồng…”
Kính lại thêm vào h́nh
ảnh khác:
“Có bà già ẵm con khóc
sau lưng ḱa!”
Ông Phật con dợm ḿnh
một chút, niệm thật to câu thần chú để trấn át sợ hăi, “ÁN MA NI BÁT DI
HỒNG!”, nhưng rồi h́nh ảnh một mụ già ẵm con chạy theo phía sau, đưa bàn
nhăn nheo ra khều ngoắc, có vẻ ghê khiếp quá khiến ông Phật con không sao
b́nh tâm nổi, bèn… chạy. Thần chú cũng rơi rớt theo bước chân th́nh thịch.
Kính và Dũng thấy Sáng chạy th́ khoái trá lắm, vừa vười nắc nẻ vừa chạy mau
hơn vào cổng viện Linh Sơn. Tôi cũng phải bật cười theo, không sao kềm nổi.
Đó là trời chỉ hơi mờ
tối thôi mà c̣n vậy. Sau giờ học là chín giờ đêm rồi, làm sao chúng tôi dám
về. Đành phải ngủ lại đêm với gần một trăm chú tiểu khác.
Chùa Linh Sơn vốn là
ngôi chùa do thầy Như Ư làm trụ tŕ. Sau, thầy vận động một số thầy khác
cùng thành lập một Phật học viện Sơ đẳng để nuôi dạy các chú tiểu. Từ đó,
chùa Linh Sơn trở thành Phật học viện Sơ Đẳng Linh Sơn; và thầy trụ tŕ nhận chức
giám sự cho Phật học viện. Ngoài chánh điện và Tổ đường đường rộng lớn, viện
Linh Sơn c̣n có dăy hậu tổ, trai đường dành cho cách thầy và các chú sa-di
lớn tuổi, có ba pḥng khách tăng nằm phía sau; bên trái chánh điện là một
tịnh thất có gác của thầy giám sự; bên phải chánh điện, cách một khoảng sân
là pḥng học và một dăy nhà nhỏ gồm hai pḥng ngủ; đi sâu vào trong là nhà
bếp và pḥng ăn nhỏ cho các chú tiểu. Phía sau dăy hậu tổ là một dăy pḥng
dài chia làm nhiều gian, mỗi gian có bốn giường ngủ nhỏ ở bốn góc; các gian
được ngăn cách bởi một vách tường, nhưng các vách đều được chia làm hai để
chừa một cửa cái không có cánh nằm ở giữa. Như vậy, từ đầu dăy có thể nh́n
tới cuối dăy, không ǵ ngăn ngại. Vị quản chúng có thể đi tuần tra dễ dàng
qua lối đi ở giữa dăy pḥng này.
Các chú tiểu ở Linh
Sơn quá đông, có nhiều chú hao hao giống nhau làm tôi lẫn lộn hoài. Có vài
chú mới bốn, năm tuổi. Chú lớn nhất là mười lăm, mười sáu tuổi. Sau giờ học,
tôi ngồi ở thềm chánh điện nh́n sinh hoạt của viện Linh Sơn, thấy chú này
chạy ra chú kia chạy vô, kêu réo, chọc ghẹo, cười giỡn, nạt nộ, la khóc,
thưa kiện nhau… thật là lăng xăng, rộn ràng đến nhức đầu. Thầy giám sự ở đây
ắt phải có t́nh thương bao la và tính nhẫn nại kinh khiếp lắm mới có thể
chịu đựng nổi cả trăm đứa bé quần thảo thầy suốt ngày đêm. Thầy cũng
phải tài giỏi lắm mới đưa viện Linh Sơn với trăm chú tiểu đủ lứa, đủ thành
phần con cháu xă hội vào nề nếp thiền môn. Nh́n qua, thấy các chú ra vào tấp
nập, xem có vẻ như không trật tự, nhưng kỳ thực, những sinh hoạt của các chú
đều nằm trong khuôn khổ cả rồi. Sinh hoạt ở Phật học viện nào cũng vậy,
giống như một trại lính. Kỷ luật, nội quy rất gắt gao. Tên lính ba gai nhất
cũng phải vào khuôn mà tên lính hiền nhất, có khi cũng nổi máu ba gai, phá
kỷ luật như ai vậy. Nhưng phạm nội quy, phá kỷ luật, đôi lúc lại là cái dễ
thương nhất của con người trong một trường hợp và thời gian nào đó trong
đời.
Đêm đầu tiên ở lại,
đang ngồi quan sát các chú, bỗng nghe kẻng báo ba tiếng. Có một chú lớn hơn
tôi vài tuổi–chắc là chịu trách nhiệm “tiếp khách” với chức tri
khách hay chúng trưởng, pḥng trưởng ǵ đó của một dăy pḥng–đến mời chúng
tôi vào pḥng tăng để ngồi thiền niệm Phật trước khi ngủ. Chúng tôi theo chú
ấy vào dăy pḥng lớn nhất của chúng tiểu tại đây. Nơi đó, chúng tôi được sắp
xếp nhường cho chỗ ngủ–v́ chúng tôi ngủ lại đêm phải chiếm mất chỗ ngủ của
vài chú tiểu nơi đây. Dù sao chúng tôi cũng là “khách tiểu” nên được
nhường cho hai cái giường. Như vậy, Kính và Dũng chung một giường, tôi và
Sáng chung một giường (Dũng và Kính không thích Sáng, c̣n tôi và Sáng dù sao
cũng có ngủ chung trong pḥng thầy tôi ở viện Hải Đức rồi). Chẳng có mùng ǵ
cả. Ban đầu thấy các chú nhường chỗ cho chúng tôi phải lau nền xi-măng mà
nằm, chúng tôi cũng ái ngại. Nhưng sau đó mới biết rằng không phải chỉ hai
chú nhường chỗ mới nằm đất mà nhiều chú khác cũng bỏ giường xuống đất mỗi
đêm v́ các chú thích nằm vậy cho mát; hoặc có chú biết phận ḿnh ngủ mê hay
té xuống đất nên đă dọn sẵn nền đất mà nằm để khỏi mất công té đi đâu nữa.
Cho nên chuyện mùng màng cũng chẳng phải ở viện thiếu thốn ǵ. Chỉ tại các
chú muốn vậy mà thôi. Có nhiều lư do để khỏi giăng mùng lắm: thứ nhất, lười
biếng; thứ hai, mỗi chú chỉ được cái giường nhỏ, nằm xoay qua xoay lại là
đứt giây mùng mà khi giăng lại th́ đinh mất, giây thiếu (có chú khác ăn cắp
đinh và gỡ giây của ḿnh rồi!); thứ ba, pḥng đông người lại kín gió, ngủ
trong mùng nực nội không chịu nổi; thứ tư, nếu ngủ có đái
dầm th́ chỉ cần lau
cái nền đất thôi, khỏi phải lau giường hay giặt mùng.
Tôi hỏi hai chú nằm
dưới đất gần chỗ ḿnh nằm:
“Mấy chú nhường mùng
cho tụi tui nên không có mùng hả?”
Một chú trả lời:
“Đâu có, trong kho c̣n
dư mùng để dành cho khách nữa mà. Treo mùng chi cho mệt!”
“Nhưng muỗi cắn chết
đó!”
Chú khác nói:
“Xí, ở đây có bao
nhiêu muỗi đâu. Trăm người ngủ ngoài mùng, muỗi chia nhau mỗi con một người
th́ cũng đâu có sao!”
Chú kia lại thêm vào:
“Với lại tụi này giăng
mùng cũng như không thôi, ngủ mê rồi tay chân cũng tḥ ra khỏi mùng cho muỗi
đốt. Vậy giăng làm ǵ cho phiền chớ!”
Tính kỹ tới mức đó th́
tôi cũng chịu thua, c̣n ư kiến ǵ để mà bàn góp nữa.
Nhưng chuyện mà tôi
chẳng bao giờ quên được nơi mái viện Linh Sơn là tṛ chơi nghịch ngợm của
các chú tiểu tại đây mà tôi chứng kiến trong một đêm ngủ lại.
Tṛ chơi này không
biết có xảy ra thường xuyên không. Chỉ biết là vào một trong những đêm tôi
ngủ lại, tṛ chơi đă diễn ra sau giờ tham thiền niệm Phật, tức là đă đến giờ
chỉ tịnh (ngủ). Có lẽ tṛ chơi này chỉ được bày ra trong dăy pḥng lớn cách
xa pḥng thầy giám sự và các vị trong ban lănh đạo Phật học viện. Bọn “khách
tiểu” chúng tôi lúc đầu chẳng hiểu ǵ, nhưng tṛ chơi cứ tái đi tái lại,
nên khờ mấy cũng thành quen thôi.
Đêm ấy, sau giờ niệm
Phật, chúng tôi nằm xuống, nói chuyện nho nhỏ đôi lời rồi ngủ. Bỗng thấy đèn
thật sáng lên khắp dăy pḥng. Đèn của các gian buồng bắt chung một công tắc
nên chỉ cần bật một cái là có thể thắp sáng hết cả dăy. Tôi tưởng là vị quản
chúng hay chúng trưởng vào pḥng tuần tra ǵ đó. Nhưng một chú tiểu nằm dưới
đất, kế giường nằm của tôi, vụt chồm lên nói nhỏ với tôi:
“Chuẩn bị nghe, khi
nào đèn tắt th́ xích sát vào vách chứ không thôi tụi nó uưnh đó.”
Tôi chưa kịp mở miệng
hỏi lại cho rơ th́ đèn tắt cụp một cái, tối thui, chẳng thấy ǵ nữa. Cũng
lúc đó, có tiếng thụi nhau nghe b́nh bịch, thùm thụp… thỉnh thoảng lại có
tiếng la lên “ui chao,” “ái da!” Rồi nhiều tiếng chân chạy rần rật qua lại
trong pḥng. Tôi đẩy Sáng xích vào góc tường rồi ngồi che ở ngoài để bảo vệ
chú ấy. (Sáng là ông Phật con lúc nào cũng lim dim niệm Phật bắt ấn mà, cho
nên không bảo vệ ổng th́ ổng bị đ̣n oan tội nghiệp!). Đâu chừng hai, ba phút
th́ đèn bật sáng trở lại. Tôi chỉ kịp thấy mấy chú nằm gần nhất rút người
lại, giả đ̣ nằm ngủ. Vị trí ai nấy giữ. Có vài chú lui về chỗ nằm của ḿnh
không kịp, đứng xớ rớ giữa đường hoặc giả đ̣ chậm răi đi ngang qua các gian
buồng, miệng cười tủm tỉm. Rồi bỗng thấy mấy chú đâu từ cuối dăy cùng đi
ngang, nh́n rơ từng mặt người ở mỗi gian. Tôi đoán là những chú này bày đầu
và kiểm soát tṛ chơi. Các chú ấy đang đi một ṿng để nh́n xem ai nằm chỗ
nào, người ḿnh muốn đánh đang nằm ở đâu. Các chú đi dần đến chỗ cái công
tắc điện. Ở đó có hai chú khác đứng sẵn, chắc là để bảo vệ và kiểm soát cái
công tắc khi muốn bắt đầu hay kết thúc tṛ chơi. Các chú đứng lại nói chuyện
to nhỏ với nhau ǵ đó. Tôi hỏi Hưng–chú tiểu khi năy báo tôi biết về tṛ
chơi–để biết t́nh h́nh thế nào:
“Xong chưa vậy?”
“Chưa đâu. Mới thử
thôi. Chút nữa c̣n ác liệt hơn nữa, kéo dài hơn nữa.”
Nghe vậy, tôi ngó qua
Kính và Dũng, dặn nhỏ:
“Nếu đèn tắt, hai chú
ngồi sát vô góc kia nghe, c̣n không th́ qua đây, bốn đứa ngồi chung một góc
này, chẳng ai đụng đến đâu. Đi lộn xộn ở ngoài mới bị đ̣n.”
Nhưng Kính và Dũng cứ
cười cười, nói nhỏ với nhau ǵ đó, trông chú nào cũng có vẻ thích thú và sẵn
sàng để tham gia tṛ chơi. Bỗng nghe cụp một cái. Đèn lại tắt, trong pḥng
tối như mực, vài tiếng la ó lên như sợ hăi, chắc là tiếng của các chú nhỏ
nhất (bốn, năm tuổi). Các chú ấy th́ chẳng ai đánh đập đâu, nhưng biết có
chuyện đánh nhau xảy ra trong pḥng, các chú la lên để khỏi bị đánh nhầm mà
thôi. Tiếng chân người chạy. Tiếng đấm nhau nghe th́nh thịch. Và những tiếng
“ai da,” “ui chao” lại vang lên. Tôi và Sáng cứ ngồi yên một góc. Các chú
nằm đất h́nh như đă chạy đi đâu rồi, chẳng nghe thấy tiếng. Dũng và Kính
cũng rút vào góc thủ thế hay sao mà tôi chẳng thấy động tĩnh ǵ phía bên
giường của hai chú. Tôi cố nhướng mắt soi thủng bóng tối để ít nhất cũng
nh́n thấy những ǵ xảy ra gần chỗ ḿnh nhất mà vô hiệu. Tối quá. Tôi đưa tay
sờ thử trong góc xem Sáng có c̣n ngồi đó không hay đă bị tha đi rồi. C̣n.
Ông Phật con hăy c̣n ngồi trong góc, chắc là đang lim dim niệm Phật cho tai
qua nạn khỏi! Bỗng có người quơ tay đấm vào ngực tôi. “Bịch, bịch.” Tôi lấy
hai cánh tay ôm che lấy mặt và phần trước ngực. “Bịch, bịch,” lại đấm nữa,
thấu trên lưng tôi. Tôi hơi ngửa người ra sau, vung tay loạn xạ, đấm về phía
trước. “Hự!” H́nh như trúng ai đó. Kẻ trước mặt chắc là bỏ chạy rồi, nhưng
một người khác, rồi một người khác nữa xông vào, một kẻ chụp lấy chân tôi mà
kéo, một kẻ đấm th́nh thịch trên đầu, trên vai, trên lưng tôi. Cha! Đến nước
này th́ chắc là không cần phải nhịn nữa rồi. Tôi ráng chịu đ̣n, quờ quạng
một lúc mới bấu được hai tay vào thành giường, tung mạnh hai chân về phía
trước. Rầm! Nghe như tiếng có người té ngửa th́ phải. Nhưng một người khác
hăy c̣n xông vào đấm tôi. Lạ thiệt! Tôi đứng dậy, vừa gạt vừa đỡ lung tung,
hướng về phía có hai cánh tay hăng hái vung về phía ḿnh, một tay che ngang
mặt, một tay đấm thẳng. Đấm theo kiểu các vơ sĩ quyền anh. Đấm thẳng, chẳng
quơ quào làm ǵ yếu lắm. Hự, hự. Đối thủ chịu không nổi, rút lui ngay. Tôi
vội lui về phía góc giường, lại đưa tay sờ vào trong, kiểm tra ông Phật con
c̣n ngồi đó không. Không! Chết rồi, ông Phật bị khiêng đi rồi! Tôi hốt hoảng
kêu lên:
“Sáng! Sáng! Chú đâu
rồi?”
Vừa lúc đó th́ đèn lại
bật lên, chói cả mắt. Tôi đảo mắt nh́n quanh thật nhanh trên giường ḿnh và
giường kế bên của Dũng và Kính. Chẳng thấy ai cả. Nhưng ông Phật con tên là
Sáng kia th́ đang đứng ở lối đi chính, tức là phía đầu giường tôi, hai mắt
ông nhắm nghiền, hai tay quơ hung hổ về phía trước như hai cặp chong chóng.
Đèn bật lên rồi, chiến tranh đă kết thúc rồi, mà ông hăy c̣n nhắm mắt, quơ
tay, miệng cười rất vui như thể chẳng c̣n ǵ trên đời vui bằng. Tôi kêu lớn:
“Sáng!”
Sáng giật ḿnh mở mắt
ra, thấy thiên hạ chung quanh ai cũng đă “ngưng chiến” hết rồi th́
mắc cỡ, chạy về lại chỗ nằm. Miệng hăy c̣n cười khoái trá. Một phút sau,
Dũng và Kính mới khom người chạy về đến chỗ nằm, leo nhanh lên giường giả đ̣
nằm ngủ. Chắc là hai cậu đi chinh chiến ở phương xa mới về tới. Và
chắc là có thầy nào nghe ồn, xuống kiểm tra. Cả pḥng im phăng phắc. Có
tiếng thầy la ở đầu dăy pḥng. Tôi nằm xuống mà trong ḷng hăy c̣n bàng
hoàng. Té ra trận chiến trong cơi u u minh minh này lại lôi kéo được cả ông
Phật con tham gia. Chẳng qua đó là một tṛ chơi thôi mà. Tṛ chơi th́ phải
vui, phải tích cực tham dự, ai đấm ḿnh chẳng biết; tṛ chơi nó vô tư như
vậy đó, đâu phải v́ thù hận ganh ghét ǵ nhau đâu, chơi xong th́ ngủ, có ǵ
mà bận tâm chứ! Có tôi mới là kẻ lạc hậu chỉ biết thu vào một góc để tự vệ
mà thôi. Tôi nằm im ngẫm lại chuyện đă qua, bật cười một ḿnh.
a
Thấy chúng tôi đi học
xa mỗi ngày cực nhọc, thầy tôi đề nghị ban giám học Phật học viện Hải Đức tổ
chức thêm một lớp sơ đẳng Phật học có chương tŕnh tương đương với chương
tŕnh của Phật học viện Linh Sơn. Như vậy, dù chúng tôi không đến Phật học
viện Linh Sơn để học mỗi ngày, vẫn có hồ sơ học bạ do Phật học viện Linh Sơn
cấp nếu hoàn tất chương tŕnh của lớp. Lớp chỉ có bốn môn chính là Lịch sử
Phật giáo, Giáo lư Phổ thông, Phật học Sơ đẳng Giáo khoa thư (bằng chữ Hán)
và Bạch thoại (tiếng Phổ thông Trung Hoa). Thành phần học tăng của lớp này
không nhiều, chỉ loanh quanh các chú tiểu ở viện Hải Đức và các chùa lân
cận, tất cả khoảng mười lăm, mười sáu người. Lúc ấy ở viện có thêm bốn chú
mới vào, hơi lớn tuổi, là Tâm, Hải, Lâm, Minh. Ở chùa Phước Điền lên học có
hai chú là Đạo và Cửu. Chùa Tỉnh hội qua học có chú Thân và chú Tùng.
Pḥng học của viện
không có giờ trống cho lớp chúng tôi sử dụng v́ vậy thầy quản chúng đă huy
động bọn tiểu chúng tôi dẹp cái nhà tôn (vốn là nhà kho, chứa những vật linh
tinh để trang hoàng cho các đại lễ) ở gần tháp chuông cũ mà làm pḥng học.
Nhờ có nhiều cửa sổ, và cũng nhờ nằm ở chỗ thoáng trên núi, pḥng học được
mát mẻ chứ không nóng bức như những nhà lợp tôn thường.
Tôi hăng say tham dự
lớp học, càng học càng thấy hứng thú. Lại có sự hướng dẫn tận t́nh của thầy
Thông Chánh, tôi học vượt hơn và đi trước chương tŕnh của lớp học. V́ vậy
mà tháng nào tôi cũng đứng đầu lớp. Thầy tôi biết được th́ hài ḷng lắm.
Nhưng có người không
thích, hay có thể nói là người ấy ganh tỵ đối với việc tu học của tôi. Ông
ấy tên là Túy, làm việc trong văn pḥng giám học của trường Vơ Tánh, thường
có mặt mỗi tuần một ngày để phụ giúp thầy tôi làm sổ sách cho viện Hải Đức;
nghe thầy nói về tôi cũng như khen tôi có chí xuất gia, dám trốn nhà để
đ̣i đi tu, ông nói:
“À, th́ ra chú ấy là
con của ông bà Đàn sao?” vừa nói ông vừa cười mỉa mai.
Ở đời ông không dám
tranh giành hay ganh tị ǵ với địa vị của ba tôi, nhưng đối với việc đạo,
ông muốn ông và gia đ́nh phải vượt trội hơn những phật-tử khác th́ phải. Ông
không có đứa con nào xin đi tu cả, mà có bắt buộc chúng đi tu chúng cũng
không chịu. Ba mẹ tôi vừa có địa vị ngoài xă hội, trong đạo lại được nhiều
Tăng Ni quư mến, đă vậy c̣n có một đứa con đi tu được thầy khen ngợi, ông
không kềm được chút tị hiềm nhỏ mọn của một người đàn ông công chức cấp thấp
vốn có cái miệng nhỏ và đôi môi thật mỏng, khi nói th́ vệu vạo như cố gắng
phân trần về cuộc đời khổ lụy của ḿnh. Ông nói:
“Chú ấy đi tu đâu có
ǵ hay đâu thầy. Con biết chú ấy rành lắm. Hồ sơ, học bạ của chú con nắm hết
mà thầy. Ôi chao, chú nầy hoang nghịch lắm thầy ơi. Cứ trốn học rồi đội sổ
hoài, học đâu có nổi. Con nghĩ chú ấy chán học quá nên đ̣i đi tu chứ có phải
là có chí hướng xuất gia ǵ đâu!”
Thầy tôi cười nói:
“Đừng có lo. Đâu phải
không thích học th́ vào chùa để rồi khỏi học. Ở chùa c̣n học nhiều hơn gấp
bội mà học suốt cả đời nữa kia. Chương tŕnh học của các chú, các thầy trẻ,
lúc nào cũng gấp đôi những người ngoài xă hội. Ai nghĩ rằng vào chùa để khỏi
đi học là lầm to đó bác. Sau này khi hoàn tất khóa Sơ đẳng Phật học rồi, chú
ấy sẽ vào Phật học viện Trung đẳng, ở đó chú sẽ vừa đi học văn hóa ở ngoài
như bao học sinh khác mà cũng vừa học chương tŕnh Phật học trong viện nữa.
Sáng th́ học trường đời, chiều th́ học trường đạo. Có khỏi học được đâu! Nhưng tôi nghe các thầy báo cáo là chú ấy học giỏi lắm mà, tháng nào cũng
đứng đầu lớp. Mới đi tu mà vậy là sáng lắm.”
“Nhưng… ai đi tu con
c̣n thấy quư chứ chú ấy đi tu con thấy nghi nghi cái ǵ đó. H́nh như là học
dở quá, chán quá mới đ̣i đi tu cho thoát nợ vậy thôi.”
Thầy bật cười nói:
“Những người có duyên
với đạo th́ thường khi không có duyên với đời. Cũng trường học, cũng giáo
sư, cũng bạn bè, nhưng khung cảnh học đường ở đời có thể không làm cho chú
ấy thích. Nếu thực sự chú ấy là một đứa bé không có tâm hiếu học th́ vào đây
chú ấy sẽ không muốn học, có học cũng học dở chứ không giỏi được. Đàng này,
thực tế cho thấy trái ngược. Bác đừng có lo mà, chú ấy không những có khả
năng tu tập hạnh kiểm rất tốt mà c̣n siêng năng thích thú việc học hành nữa
là khác.”
Thầy tôi đă nói vậy mà
ông Túy vẫn chưa vừa ḷng, cứ đinh ninh một giọng là tôi chỉ muốn trốn học
nên vào chùa. Thấy vậy, thầy Tín, một thầy học tăng của viện cũng ngồi trực
tại pḥng khách, đâm bực, bèn mạn phép lên tiếng:
“Cái ṿng lẩn quẩn của
thế gian không phải ai cũng thích đi vào đâu bác ạ. Cho dù nó là đứa lười
biếng, lêu lỏng ngoài đời, nhưng khi nó quyết tâm chọn con đường xuất gia
rồi th́ có thể coi như nó đă có chí hướng, có cách chọn lựa khác thường của
nó. Cách chọn lựa đó là cách chọn lựa khôn ngoan, hợp với đạo mà không phải
rằng ai cũng có thể có được đâu. Nếu bác học đạo lâu năm, bác sẽ thấy rằng
thực ra cả thế gian này cũng cần phải bỏ quách cho xong chứ nói chi chuyện
bỏ học, bỏ trường!”
Bấy giờ ông Túy mới
cười bẽn lẽn mà im luôn. Thầy Tín đă kể lại cho tôi nghe cuộc nói chuyện tại
pḥng khách hôm đó. Thầy ấy khuyên tôi đừng để ư chi chuyện ganh tị nhỏ nhen
của người đời, cứ hết ḷng tu học là được rồi. Thực ra tôi cũng chẳng có th́
giờ và tâm trí để quan tâm chuyện đó. Tôi có nhiều bài vở để học lúc ấy.
Nhất là những bài mà thầy Thông Chánh kèm dạy thêm cho tôi ngoài chương
tŕnh lớp học.
Tháng sau, thầy tôi
cho cả lớp học biết trước rằng theo chương tŕnh giáo dục của Giáo hội trung
ương đề ra, sẽ có nhiều Phật học viện Trung đẳng của các tỉnh đồng loạt khai
giảng vào tháng chín năm nay, tức là c̣n khoảng bảy tháng nữa. Điều kiện
nhập học là tŕnh độ trung học đệ nhất cấp, học xong hai thời kinh công phu,
giáo lư phổ thông cơ bản và ít nhất là hai cuốn luật tiểu. Các chú tiểu tốt
nghiệp Phật học viện Sơ đẳng th́ được chuyển thẳng lên Phật học viện Trung
đẳng, không cần phải qua kỳ thi khảo hạch. Nghe vậy, lớp học chúng tôi mừng
khấp khởi, chú nào chú nấy hăng say lo học để được thầy tôi lập danh sách
chuyển trường. Có thể nói rằng lớp tôi là một lớp học “cấp tốc.” Chương tŕnh Sơ đẳng Phật học nếu học kỹ th́ phải hết bốn năm, c̣n rút ngắn
th́ cũng phải hai năm; đằng này, lớp chúng tôi chỉ rút gọn trong ṿng nửa
năm là lấy chứng chỉ tốt nghiệp Sơ đẳng của Phật học viện Linh Sơn để được
chuyển đi.
Chương tŕnh học như
vậy đă bao hết th́ giờ của tôi trong ngày khiến tôi và thầy Thông Chánh chỉ
rảnh có giờ phóng tham để thầy dạy tôi học thêm chữ Hán và các giáo lư phổ
thông ngoài chương tŕnh của lớp. Chuyện đưa tôi đi chơi cuối tuần hay đi
phố mua sách đă phải giảm xuống, lâu lắm mới có một dịp.
Loay hoay bận rộn với
chuyện học hành, tôi gần như quên mất ngày tháng trôi qua rất nhanh. Đến khi
mẹ tôi mang đến cho tôi một gói quà nhỏ, một tấm thiệp và một bài thơ, tôi
mới giật ḿnh biết rằng tôi đă xuất gia được một năm.
Mẹ tôi đem quà cho tôi
mà không có thời giờ nói được ǵ với tôi cả. H́nh như mẹ lên viện từ sáng sớm
nhưng không gặp tôi được; mẹ thăm quư thầy, rồi xuống bếp phụ giúp các d́
vải, ở lại chơi suốt ngày để chờ có dịp gặp tôi. Ban ngày tôi bận học bài,
coi nhà, rồi xế chiều tôi lại có giờ học trong lớp. Khi tôi tan lớp th́ mẹ
sắp phải sửa rời viện để về, chỉ nói một câu ngắn gọn:
“Con xuất gia được một
năm rồi đó. Mẹ mua quà cho con để kỷ niệm.”
Tôi cầm gói quà nhỏ
của mẹ, chẳng biết nói ǵ. Tôi chỉ cười rồi ngồi yên đó. Mẹ tôi cũng ngồi
yên một lúc rồi cáo từ mà về. Tôi không dám đưa mẹ tôi đi ra xa khỏi khu vực
pḥng khách v́ có thầy tôi ngồi ờ đó. Chờ mẹ đi khuất sau dăy Tổ đường, tôi
mới đem cất tạm gói quà vào va-li rồi đi quanh đường khác, xuống dăy nhà
bếp, nh́n qua con đường Hoàng hôn: dáng mẹ tôi với chiếc áo dài lam ẩn hiện
giữa những hàng cây rợp bóng.
Từ ngày tôi xuất gia,
mẹ tôi đă cất hết những chiếc áo dài với hàng lụa tốt và màu sắc rực rỡ. Bà
c̣n ăn chay, tụng niệm nhiều, sống đơn giản hơn, để âm thầm chia sẻ với
những khổ nhọc của đứa con trai nhỏ ở chùa. Ba tôi trong một lúc xúc cảm
ngồi bên tôi, đă cho tôi biết như vậy.
Mẹ tôi bước từng bước
chậm trên con đường ngập nắng hoàng hôn. Xưa nay bà vốn vậy, đi đứng lúc nào
cũng chậm răi, thong thả, như một kẻ suốt đời nhàn du qua cuộc dâu bể của
trần gian. Tôi nh́n theo dáng mẹ mà thấy bâng khuâng trong ḷng. Tại sao tôi
lại không nói được với mẹ lời nào nhỉ? Phải chăng tôi đă trở thành một chú
tiểu và không c̣n là đứa con của mẹ nữa sao? Lâu lâu mẹ mới lên viện một
lần, vậy mà lần gặp gỡ chiều nay, chỉ là để nh́n tôi, trao cho tôi món quà
nhỏ ấy thôi. Tôi thấy tội nghiệp cho mẹ quá. Dù rằng mẹ c̣n có mười ba đứa
con khác để biểu lộ thương yêu, nhưng thiếu sự biểu lộ thương yêu một cách
b́nh thường đối với tôi, chắc mẹ cũng buồn, cũng khó chịu trong ḷng.
Chờ mẹ khuất hẳn ở
cuối con đường đồi, tôi mới xoay qua lo việc dọn cháo chiều cho thầy. Sau đó
th́ đến giờ ăn cơm của bọn tiểu chúng tôi. Không có thời gian rảnh nào để
tôi mở gói quà của mẹ. Sau giờ ăn là giờ phóng tham, tôi phải đến pḥng thầy
Thông Chánh để lo trả bài và nghe giảng bài mới. Xong giờ học này, tôi lại
có lớp tối gần hai tiếng đồng hồ. Tan lớp, tôi trở về pḥng mới nhớ sực lại
gói quà chưa mở ra của mẹ. Không có pḥng riêng, tôi mang gói quà ra cột cờ
trước chánh điện, nơi có hai ngọn đèn vàng rất sáng từ hai bên lối đi rọi
đến. Tôi run run mở gói quà được gói rất đẹp và cẩn thận do chính tay mẹ.
Dưới lớp giấy bao là một cái b́ thư nhỏ, bên trong là một tấm thiệp nhỏ
không h́nh ảnh, mà là một bài thơ, phía dưới ghi rơ ngày xuất gia của tôi
cũng như ngày kỷ niệm của năm nay. Món c̣n lại là cái hộp giấy mà tôi đoán
là bánh hay kẹo ǵ đó. Tôi mở ra xem. Tôi đoán không sai. Bánh dẻo. Một hộp
bánh dẻo, loại bánh mà người ta thường bày bán vào dịp Tết Trung Thu. Chắc
mẹ tôi cũng đắn đo suy nghĩ trước khi chọn quà cho tôi. Mua quà cho thầy tu
rất khó, ngoài chuyện mua trà, sách vở, tranh, bút… chẳng biết mua ǵ khác
hơn. Thầy tu là kẻ từ bỏ thế gian mà, vậy th́ có món quà nào của thế gian
làm cho họ vui đâu! Huống chi ở Phật học viện này mỗi người đều có tiêu
chuẩn cơm ăn, áo mặc, pḥng ở, v.v… hàng tháng, hàng năm rất đầy đủ, biết biếu
tặng cái ǵ cho vừa ḷng họ! Cũng may tôi là ông thầy tu rất nhỏ nên việc
mua quà của mẹ không đến nỗi quá khó. Mẹ mua cho tôi hộp bánh dẻo. Thực tế
vậy thôi! Con nít mà, tu rất quư, nhưng ăn cũng quan trọng lắm! Hộp bánh dẻo
Bảo Hiên Rồng Vàng rất thơm. Ngửi cũng đă thấy thèm rồi nói chi cắn
từng miếng nhỏ mà nhai, dẻo ơi là dẻo!
Nhưng tôi không ăn
vội, tôi đọc tấm thiệp có chép bài thơ của mẹ cái đă. Mẹ tôi là thi sĩ mà.
Bà làm thơ từ năm mười bốn tuổi, đă cùng d́ Mộng Tuyết, d́ Thụy An kết nghĩa
chị em thành ba nữ sĩ của ba miền (nữ sĩ Thụy An miền Bắc, nữ sĩ Mộng Tuyết
miền Nam, mẹ tôi, Trinh Tiên, miền Trung). Thơ bà đă in thành tập, phát hành
rộng răi, nhất là tập thơ đạo có tên Hương Đạo Hạnh đă được giới tu
sĩ và cư sĩ đón nhận nồng nhiệt. Bà làm thơ tặng các chùa, các thầy, các sư
cô, tặng những d́ vải, tặng chú Đông làm công quả, tặng con mèo ăn chay,
tặng những cánh phong lan của viện. Nơi nào có người tu, nơi đó có mặt mẹ,
nơi nào có mặt mẹ, nơi đó có thơ. Vậy th́ làm sao bà có thể thiếu được một
bài thơ cho đứa con trai nhỏ nhân ngày kỷ niệm một năm xuất gia của nó chứ!
Bài thơ có tựa đề “Chiều Thu Thăm Con Ở Chùa”:
“Đồi mùa thu
trải lá
Non tây
hút mặt trời
Sương
lành thâu nắng ngă
Chuông
chùa ngân chơi vơi…
Dưới
thấp bước lên cao
Me để
thành phố lại
Bỏ sắc
đời hư hao
Quên
chuyện đời khôn dại…
Bằng
hai bàn tay không
Me ôm
đầy tâm niệm
Khuyên
con luyện chí đồng
Me quỳ
dâng mật nguyện…
Trở về
cao xuống thấp
Sương
mớm lá thu vàng
Trên
đồi như nai nhỏ
Áo nhật
b́nh màu lam.”
Dù tôi có mặc đồ tây
hay khoác áo nhật b́nh màu lam, trong mắt mẹ, tôi vẫn là một con nai nhỏ,
đứng trên đồi dơi mắt nh́n theo dáng mẹ khuất dần ở xa.
Ngày hôm sau, trong
bốn cái bánh dẻo, tôi đem biếu thầy Thông Chánh một cái, chia cho các chú
tiểu hai cái, và ích kỷ giữ lại một cái cho riêng ḿnh để ít nhất cũng ăn
một cách trân trọng mà đáp lại tấm ḷng của mẹ. Mẹ tôi thường thi vị hóa cả
những cái rất tầm thường hàng ngày. Tôi nghĩ chắc bà cũng muốn tôi ăn cái
bánh dẻo để tự nhắc ḿnh trau luyện ư chí cho bền dẻo mà tu học. Chỉ trong
ngày ấy th́ bánh hết. Nhưng bài thơ và sự khích lệ ư vị của mẹ th́ c̣n măi.