CHƯƠNG CHÍN
Đang tu học yên ổn và
vui vẻ với bạn học cùng lớp cũng như dưới sự hướng dẫn tận t́nh của thầy
Thông Chánh, bỗng có tin là tôi phải cùng chú Thiệt theo thầy tôi và một
thầy học tăng trẻ khác qua ở chùa Linh Phong. Chùa này cũng ở trên đỉnh đồi
Trại Thủy, nhưng nằm trên cánh khác của ngọn đồi. Theo địa lư th́ đồi Trại
Thủy có h́nh thù của một con dơi. Chánh điện Hải Đức nằm trên đầu dơi, c̣n
chùa Linh Phong mà chúng tôi sắp đến th́ nằm ở cánh phải. Cánh phải này đâm
ra phía Mả Ṿng, sát với Quốc lộ số I. Như vậy, từ quốc lộ rẽ vào con đường
đưa đến cổng chính Phật học viện Hải Đức, người ta phải đi ngang chùa Linh
Phong. Đă có nhiều lần đi ngang đây, nh́n thấy ngôi chùa Linh Phong này từ
xa, trên núi cao, tôi không để ư lắm. Không ngờ nay tôi trở thành một chú
tiểu của chùa đó.
Nguyên xưa kia, trên trăm năm
trước, ngôi chùa này c̣n là một ngôi miếu thờ Quan Công do một số người Hoa
lập nên. Sau, có một vị sư già pháp hiệu là Phổ Tế từ Huế vào, nhận lời trụ
tŕ và cải đổi ngôi miếu thành ngôi chùa, đặt tên là Linh Phong Cổ Tự.
Nhưng người ta vẫn quen gọi chùa này là chùa Núi cho gọn thay v́ gọi
bằng cái tên dài ḍng mà Ḥa thượng Phổ Tế đặt cho. Sau mấy mươi năm trụ tŕ,
Ḥa Thượng Phổ Tế cất một thiền thất gần chùa rồi ẩn tu, không tiếp xúc tục
khách nữa. Ngôi chùa v́ vậy thiếu người trông nom. Các phật-tử người Hoa
không mời được thầy về thay thế vị ḥa thượng già, bèn nhờ cậy phật-tử Việt
tại địa phương xóm Xưởng, tức xóm nhà nằm giữa chùa Núi và Phật học viện Hải
Đức. Những phật-tử này cử người lên viện thỉnh cho được thầy tôi sang trụ
tŕ. V́ đang bận lo nhiều phật-sự ở viện cũng như nhiều chùa khác nên tuy
nhận lời, thầy tôi không có mặt thường xuyên tại chùa Linh Phong được. Đó là
lư do thầy tôi đem theo một thầy học tăng trẻ và hai chú tiểu để phụ giúp
trông coi công việc của chùa.
Đă sống ở viện yên ổn, chẳng
ai muốn dời qua sống tại một ngôi chùa nhỏ bao giờ. Nhưng thầy học tăng trẻ
kia v́ ở ngoài Huế mới vào chưa có chỗ ở ổn định, nên nghe nói thầy tôi mới
nhận chùa liền xin đi theo. C̣n chú Thiệt là một chú tiểu ngoài Phú Yên vào,
học cùng lớp tôi, xin đi theo v́ muốn có thay đổi. Chỉ có tôi là không tự
chọn chuyện đến chùa Linh Phong này; tóm lại, tôi bị thầy tôi chỉ định.
Tôi thực t́nh là không muốn
đi, nhưng làm sao dám căi lệnh thầy. Tôi có hơi bất măn trong ḷng khi thầy
tôi quyết định đưa tôi sang một ngôi chùa nhỏ, bắt đầu một cuộc sống mới với
những sinh hoạt tuy rằng cũng tu cũng học, nhưng không gian có vẻ như thu
hẹp lại ở mọi chiều khiến cho tâm hồn trở nên nhỏ bé, tù túng, rất khó chịu.
Ngày rời viện để qua chùa Linh
Phong, tôi muốn khóc. Tôi có cảm giác như bị lưu đày. Thầy Thông Chánh an
ủi:
“Bên đó bên này có xa ǵ nhau
đâu, cũng cùng trên một núi thôi mà!”
Mỗi chiều vào giờ phóng tham,
thầy Thông Chánh từ viện qua chùa Linh Phong để dạy kèm cho tôi. Dù sao thầy
Thông Chánh cũng được tự do hơn tôi nên thầy phải t́m đến tṛ để dạy chứ
không phải ngược lại như thông lệ.
Ngày đầu tiên đến chùa Linh
Phong, thầy tṛ chúng tôi bốn người lo dọn dẹp, quét tước suốt ngày. Đến tối
th́ chỉ có thầy tôi là có chiếc giường sắt nhỏ để nghỉ đêm, c̣n thầy học
tăng kia (pháp danh là Trừng Hùng) ngủ trên bộ ván gơ. Chú Thiệt và tôi th́
treo mùng ngủ dưới đất. Lúc đó chưa có dăy Đông nên bốn thầy tṛ tập trung
ngủ tại nhà Tây. Điện của nhà Tây cũng chưa bắt hay đă bị cháy bóng rồi nên
phải thắp đèn dầu đêm ấy. Đêm buông xuống th́ tối mịt tối mờ, y như ở nhà
quê vậy. Ở mặt trước của chùa có bốn cây me cổ thụ trên trăm tuổi, ban ngày
th́ tỏa bóng mát rất lư tưởng, nhưng ban đêm có bước ra ngoài để tiểu tiện
th́ cũng phải rùng ḿnh, kinh sợ cái dáng hùng vĩ mà âm u của chúng.
Tưởng cũng cần nói thêm ở đây
một chuyện không được thơ mộng nhưng lại là nét đặc biệt không thể bỏ qua
của chùa Linh Phong: chùa không có cầu tiêu. Có lẽ v́ xưa kia, nơi đây chỉ
là một cái miếu thờ Quan Thánh của người Hoa, lâu lâu người ta mói thắp
nhang, xin xăm, xong chuyện th́ về nhà, có ăn uống hay ở chơi lâu đâu mà
nghĩ đến chuyện “lớn.” Đến khi thỉnh được Ḥa thượng Phổ Tế, người ta
cũng không nghĩ đến chuyện xây cầu tiêu, v́ Ḥa thượng có ăn uống bao nhiêu
đâu, lại sống đơn giản nữa, chẳng bao giờ đ̣i hỏi ǵ hết, nên người ta cũng
lờ luôn chuyện xây cái cầu tiêu tiêu chuẩn. Như vậy, đă hơn trăm năm rồi,
nơi đây không có cầu tiêu. Nhấn mạnh điều đó để tự an ủi rằng không phải chỉ
có thầy tṛ chúng tôi mới chịu cái thiệt tḥi, bất hạnh này.
Ngày đầu, tôi thắc mắc là cầu
tiêu ở đâu. Tôi hỏi chú Thiệt, chú bảo tôi đi theo chú xuống ngơ bếp. Tôi
tưởng cầu tiêu nằm phía sau nhà bếp, không ngờ đến ngang cửa bếp, chú lôi ta
từ trong góc một cái cuốc, đưa tôi, nói tỉnh bơ:
“Cầu tiêu nè!”
Vậy mà thằng bé ít khi bị chê
là ngu độn như tôi cũng không hiểu nổi, cứ hỏi:
“Là sao?”
Chú Thiệt cười ngặt nghẽo một
lúc mới giải thích cho tôi hiểu. Té ra là vậy! Phải cuốc đất lên, làm một
cái lỗ vừa phải đâu đó ngoài núi, nơi chỗ khuất, xong việc th́ lấp đất lại,
kiểu như mèo vậy. Khổ nỗi, dù chung quanh chẳng ai ḍm ngó, cũng có cảm giác
xấu hổ khó chịu, chẳng sao thoải mái được. Chuyện “đi ngoài” lâu nay
đă là chuyện phiền, bây giờ lại càng phiền hơn.
Cầu tiêu là cái quan trọng,
thiết yếu nhất mà người ta c̣n không chịu xây nói ǵ là cái buồng tắm. Cho
nên, thường thường, chúng tôi phải chờ đến tối mới xách nước ra sau hiên bếp
mà tắm. Chẳng có vách che, nhiều khi gió núi thổi lạnh run mà cũng đành chịu.
Vài hôm sau, có phật-tử dưới
xóm lên đào một cái hố lớn phía sau núi để làm cầu tiêu cho chùa. Trên miệng
hố, người ta có bắc ngang một tấm ván dày. Cầu tiêu đơn giản như vậy thôi
nhưng dù sau cũng tươm tất và có vẻ ổn định hơn là mỗi lần đi là mỗi lần vác
cuốc theo y như nông phu ra đồng. Quanh miệng hố hăy c̣n um tùm cây cỏ, như
vậy cũng đỡ, không bị mang tiếng là trắng trợn. Tuy nhiên, con đường dẫn từ
nhà bếp ra đến cầu tiêu dă chiến này th́ ngoằn ngoèo, người đi dễ bị lạc vào
ban đêm. Cũng từ cái ngoằn ngoèo, nó khiến người ta bước đến cầu tiêu một
cách đột ngột. Nghĩa là nếu có ai ngồi sẵn nơi đó th́ người đến sau chẳng
làm sao mà biết được. Thậm chí người ngồi sẵn nơi đó cũng chẳng biết là có
một người khác đang tiến về phía ḿnh. Đang bước ṿng qua ṿng lại theo con
đường bỗng đùng một cái: tới cầu tiêu. Nếu đă có người th́ “A!” lên một
tiếng, người kia cũng “A!” một tiếng, kẻ lật đật quay lưng, người đỏ mặt đỏ
mày lo ẩn nấp, che giấu. Lỡ một lần như vậy rồi nên thầy Trừng Hùng dặn
chúng tôi:
“Lần sau có ra cầu tiêu phải
nhớ tằng hắng mấy tiếng trước cho người ta biết. Đừng có làm thinh lủi lủi
mà đi như vậy. Xớn xa xớn xác chẳng chịu ngó trước ngó sau ǵ hết!”
Dù đă dặn ḍ kỹ như vậy, thầy
Trừng Hùng cũng chưa yên tâm. Mỗi lần có việc phải ra cầu tiêu, thầy
luôn mang theo một tờ báo. Lỡ có ai ḷ ṃ ra cầu tiêu khi thầy đang có mặt ở
đó th́ thầy vừa tằng hắng vừa mở báo ra mà che. Trông th́ có vẻ như đang
thong thả đọc báo vậy thôi chứ thực ra ai mà muốn ngồi lâu nơi đó! Sau này,
mỗi lần thầy Trừng Hùng đi có việc mà tôi có hỏi tới th́ chú
Thiệt trả lời rằng:
“Thầy đi đọc báo rồi.”
Chú Thiệt lớn hơn tôi ba, bốn
tuổi, lại là dân nhà quê đă quen việc ruộng rẫy nên biết rất nhiều việc từ
lớn đến nhỏ trong chùa, ngay cả việc bếp núc là việc mà tôi cứ đinh ninh
phải là việc của những người phụ nữ lớn tuổi. Ngày đầu tiên, chúng tôi lo
dọn dẹp, có mấy cô phật-tử dưới xóm lên nấu cơm và thức ăn. Qua hôm sau, mấy
cô không lên nữa, chú Thiệt xăn tay nấu cơm. Thầy Trừng Hùng th́ nấu thức ăn,
kho đậu hủ, xào cải với nấm rơm, nấu canh khổ qua, đủ món cả, ăn rất ngon.
Thầy Trừng Hừng chỉ nấu một lần, sau đó th́ giao cho chú Thiệt và tôi phụ
trách luôn chuyện bếp núc hàng ngày. Giao chú Thiệt th́ không sao, giao tôi
th́ tôi chết cứng. May sao chú Thiệt cũng vui vẻ làm hết. Được người khác
ngưỡng mộ sự lịch lăm của ḿnh cũng là một niềm vui lớn của con người mà!
Đến giờ nấu cơm, tôi xuống bếp
theo chú Thiệt mà chỉ đứng lớ ngớ chứ chẳng biết làm ǵ. Tôi hỏi chú Thiệt:
“Sao chú biết nấu cơm hay vậy?
Tôi không biết nấu cơm chú à.”
“Không sao, để tui nấu, chú
làm việc khác, phụ lặt rau, rửa rau được rồi.”
Chú nói vậy tôi mới an tâm.
Nhưng chừng một tuần lễ sau th́ chú Thiệt đâm nạnh–chắc thấy rằng không biết
ǵ như tôi th́ sướng quá–rồi chú thưa với thầy Trừng Hùng rằng chuyện nấu ăn
phải chia phiên chứ chú không chịu nấu hoài. Sau tuần đầu, thầy tôi chỉ có
mặt tại chùa Linh Phong vào mỗi chủ nhật, nên bao nhiêu việc ở chùa đều do
thầy Trừng Hùng quyết định. Thầy Trừng Hùng nghe chú Thiệt đề nghị hợp lư
quá, chấp nhận ngay. Vậy là chia phiên, chú Thiệt nấu một ngày, tôi nấu một
ngày. Trong sự quyết định của thầy Trừng Hùng cũng như chú Thiệt, tôi thấy
cái vẻ cay cú hiểm ác muốn hành hạ tôi cho bơ ghét chứ chẳng phải b́nh
thường. Họ biết tôi rất khổ sở khi phải chịu trách nhiệm loay hoay một ḿnh
dưới bếp để lo ba bữa ăn trong một ngày. Nếu họ muốn tập cho tôi nấu th́
cũng phải hướng dẫn tôi nấu tận t́nh và cần một thời gian cho tôi thực tập
chứ đâu phải đột ngột quyết định chia phiên như vậy. Hẳn là họ mong đợi tôi
ôm nồi xoong mà khóc dưới bếp mới hả dạ!
Điều khổ thêm cho tôi là vào
buổi sáng đầu tiên đến phiên tôi nấu, thầy tôi từ viện qua chùa Linh Phong
thật sớm. Có lẽ ngày ấy thầy tôi rảnh việc bên viện. Thấy thầy qua, tôi càng
lo sợ hơn, v́ buổi điểm tâm đầu tiên do tôi dọn sẽ có thầy tôi thưởng thức
nữa. Nhưng tôi đă nấu xong rồi, chẳng biết làm sao khác hơn. Tôi cứ dọn. Món
này đối với tôi th́ khỏe lắm, không tốn nhiều thời gian, lại ngon nữa: cơm
chiên. Chỉ khổ là thầy tôi sẽ không dùng được. Cơm hôm qua chú Thiệt nấu c̣n
dư (một phần do tôi cố ư ăn ít lại một chút để có cơm thừa), hôm nay tôi đem
chiên lại mà ăn. Món cơm này kể ra th́ chẳng khó khăn ǵ. Bắc chảo dầu lên,
chờ sôi. Thay v́ khử tỏi, khử hành như ở nhà th́ khử “ba-rô” (chú
Thiệt đọc như vậy. Tiếng Pháp là boireau, giống như hành lá nhưng củ
và lá lớn hơn nhiều. Ở chùa dùng boireau thay hành tỏi là những thứ
bị kiêng). Sau đó đổ cơm vào, xào, xáo, trộn qua trộn lại sao cho cơm thấm
dầu đều hết rồi nêm muối, bột ngọt, tiêu. Lại trộn đều. Để một lúc cho cháy
ḍn tí xíu dưới đáy chảo càng ngon. Vậy là xong.
Cơm dọn lên bàn rồi, thầy
Trừng Hùng hỏi tôi trong lúc thầy tôi và chú Thiệt đang lo dọn dẹp ǵ đó
trên chánh điện:
“Chỉ vậy thôi sao?”
“Buổi sáng không ăn cũng được
mà thầy. Có cơm chiên là quư rồi.”
Thầy Trừng Hùng khựng một lúc
rồi nói:
“Bữa nay có thầy trụ tŕ qua
mà nấu vậy đó hả, rồi thầy trụ tŕ dùng cái ǵ? Cơm thừa mà dám mời thầy
sao?”
“Con nấu xong rồi thầy trụ tŕ
mới qua. Con đâu cố ư dọn cơm chiên mời thầy. Bây giờ đâu biết nấu ǵ khác
để dọn!”
“Tao đập chết bây giờ, mi nói
ngang ngạnh như vậy đó hả?”
Tôi lặng thinh quay xuống bếp,
nhưng cũng không giấu được vẻ bực ḿnh quạu quọ của ḿnh trên nét mặt. Thầy
Trừng Hùng bước theo, nói:
“Nấu liền một cơm trắng nhỏ
đi, rồi đồ ăn để tao nấu.”
Những tiếng “tao, mi”
hằn học của thầy Trừng Hùng như làm tổn thương cái khối đạo t́nh đẹp đẽ
nguyên vẹn mà tôi có được đối với đồng đạo kể từ khi bước chân vào chùa. Tôi
lấy cái xoong nhỏ, vào kho đong gạo th́ thầy tôi từ chánh điện bước xuống
nhà Tây, ngồi vào bàn ăn. Thầy Trừng Hùng thưa:
“Bạch thầy, v́ không biết thầy
qua sớm nên chú Khang chỉ chiên cơm thôi chứ chẳng nấu ǵ. Con bảo chú nấu
cơm trắng để mời thầy. Chú đang nấu dưới bếp, thỉnh thầy chờ thêm một lúc.”
Thầy tôi vui vẻ nói:
“Đâu cần phải nấu chi nữa. Cơm
chiên như vậy được rồi. Có chi ăn nấy cho khỏe. Điểm tâm mà bày vẽ chi
nhiều. Kêu chú ấy lên ăn đi, đừng nấu nữa.”
Chú Thiệt vội xuống gọi tôi.
May là tôi chưa vo gạo. Tôi theo chú Thiệt ngồi vào bàn ăn. Thầy tôi bưng
chén cơm chiên hỏi:
“Cơm ai chiên vậy?”
Thầy Trừng Hùng đáp:
“Bạch thầy, chú Khang chiên đó.
Hôm nay đến phiên chú nấu. Con chia phiên cho hai chú mỗi chú nấu một ngày.”
Thầy tôi cười, có vẻ như không
chú ư lời thầy Trừng Hừng, quay qua hỏi tôi:
“Con cũng biết chiên cơm nữa
hả? Cơm chiên này lâu lâu ăn một lần th́ được, đừng chiên cơm thường xuyên
ăn không tốt đâu.”
Rồi thầy tôi ăn ngon miệng.
Tôi nh́n thầy mà ứa nước mắt. Thầy tôi không bao giờ ăn cơm chiên. Thầy cữ
ăn những món có nhiều dầu. Lỡ có ăn vào là thầy bị đau bụng, khó tiêu. Bên
viện, các d́ vảo phải nấu riêng thức ăn cho thầy tôi chứ không nấu theo thức
ăn của đại chúng. Nấu ăn cho thầy tôi, các d́ vải không dùng bột ngọt, dầu
ăn, đường cát, tiêu, ớt, v.v… Cơm hay thức ăn dọn cho thầy tôi cũng chẳng ai
dám dọn cơm thừa hay thức ăn để cách đêm, v́ mỗi lần thầy tôi ăn vào những
món ăn như vậy là lâm bệnh mấy ngày. Vậy mà bây giờ thầy ngồi vào bàn, tự
bới cơm lấy, ăn một cách ngon lành cái món cơm chiên đơn sơ mà nhiều độc
tố do tôi nấu.
Sau bữa ăn, tôi đang rửa chén
th́ thầy Trừng Hùng xuống chỉ mặt tôi nói:
“Từ nay về sau không bao giờ
chiên cơm nữa nghe chưa. Cơm có dư th́ hai chú ăn đi, không được dọn cho mấy
thầy.”
Trưa đến, tôi lại phải xuống
bếp, h́ hục nấu cơm một ḿnh. Quả là một cực h́nh cho tôi mà chẳng ai hiểu
thấu. Không, chắc là có hai người hiểu thấu chứ, đó là thầy Trừng Hùng và
chú Thiệt. Hai người đó biết rơ là tôi xuống bếp nấu ăn sẽ hư sự v́ tôi thật
là chưa biết nấu ăn. Vo gạo xong, tôi đổ nước vào đầy nồi rồi lo chụm lửa.
Khổ nhất là đun củi sao cho cháy. Tuần trước c̣n nấu bằng ḷ dầu hỏa nhưng
thầy Trừng Hùng bày ra chuyện nấu bằng ḷ củi cho đỡ tốn kém–củi mua rẻ tiền
mà cũng có thể gom được đàng sau núi. Hồi mới bắt đầu nấu bằng ḷ củi, chú
Thiệt đă đun củi bằng cách đổ vào một ít dầu hỏa trước khi châm lửa. Thầy
Trừng Hùng biết được liền quở:
“Không được dùng dầu hỏa mà
nhen lửa! Tao bảo nấu củi là để đỡ tốn dầu hỏa mà mi c̣n lấy dầu hỏa rưới
vào củi, vậy sao gọi là tiết kiệm được!”
“Con rưới có chút xí cho dễ
bắt lửa thôi mà!” chú Thiệt phân bua.
“Cũng không được nữa. Củi khô,
chụm là phải cháy, cần ǵ dầu hỏa!”
Lần sau, không có dầu hỏa chú
Thiệt vẫn nhen được ḷ củi một các dễ dàng v́ chú thay dầu hỏa bằng sáp vụn
lấy từ đèn cầy chảy ra. Ở chùa th́ sáp vụn đâu có thiếu. Ngày nào cũng thắp
đèn cầy cúng Phật mà. Nhưng thầy Trừng Hùng biết được lại la:
“Không được xài sáp vụn!”
Chú Thiệt không giấu được vẻ
bực ḿnh, hỏi lại:
“Sao vậy thầy? Sáp vụn không
xài để đem đi đổ hết à?”
“Đừng có hỏi. Để dành sáp đó
cho tao. Ngoài Huế người ta gom sáp đó lại thành kí mà bán chứ chẳng ai lai
đi nhen lửa như mi cả.”
Vậy là dầu hỏa hay sáp vụn đều
bị cấm trước khi đến lượt tôi nấu cơm. Thực ra không có dầu hỏa hay sáp vụn,
chú Thiệt vẫn cứ nhúm củi cháy được như thường v́ chú biết cách. Lúc chưa đi
tu chú ấy c̣n biết nhúm lửa bằng lá hay rơm khô nữa kia, nói chi củi. Chỉ
khổ là khổ cho tôi thôi. Tôi xé một mớ giấy báo, vùi dưới củi rồi đốt, chỉ
thấy khói lên mù mịt; khi lửa bén được th́ bùng lên một cái, cháy rụi hết
giấy báo, củi vẫn nằm ́ ra đó, chưa cháy được lớp vỏ khô bên ngoài. Loay
hoay một lúc lâu mà không nhen được ḷ, tôi vừa quạu vừa tức thầy Trừng Hùng
và chú Thiệt cố t́nh bức hiếp tôi. Cho dù tôi xuất gia với một chí nguyện
kiên cường th́ tôi vẫn cứ là một đứa con nít, bị ép quá th́ cũng khóc thôi.
Chẳng biết phải làm sao, tôi ngồi thừ ra một chặp. Chợt nghĩ đến bữa cơm
phải dọn vào trưa nay, tôi thấy trong ḷng bấn loạn lên. Tôi líu quíu nhét
thêm giấy báo vào ḷ, lại mồi lửa đốt. Vẫn là khói. Nước mắt tôi chảy ṛng
ṛng. Bỗng thầy tôi xuất hiện. Tôi đứng dậy khi thầy bước vào bếp.
“Khóc hả?”
“Bạch thầy không phải. Tại
khói cay mắt.”
“Con mới nấu cơm lần đầu, phải
không?”
“Dạ.”
Thầy tôi xăn tay áo, ngồi khom
xuống, kéo hết mấy nhánh củi ra khỏi bếp ḷ. Đưa một khúc củi lên nh́n, thầy
nói:
“Củi này chưa được khô. Nhen
khó bắt lửa lắm. Chỉ lên khói thôi.”
Rồi thầy soạn đống củi nhỏ
chất đống trong góc bếp, lôi ra một ít nhánh. Lấy từng khúc củi gơ thử lên
đá để xem củi đă khô chưa. Thầy dạy tôi cách sắp củi vào ḷ, đan vào nhau,
chừa khoảng trống ở dưới cho thông hơi. Từ khoảng trống đó, thầy đưa giấy
mồi lửa vào. Củi bắt lưa dễ dàng, cháy phừng phực. Thầy xoay qua nhen lửa
cho ḷ khác. Tôi chú ư học cách thầy làm. Hai ḷ đă cháy cả rồi, thầy bảo
tôi bắt nồi cơm và xoong nước để nấu canh lên. Xoong nước nấu canh th́ chẳng
sao. Chỉ có nồi gạo th́ thầy chắt bớt nước, nói rằng nhiều quá. Vậy mà tôi
cứ tưởng đổ vào bao nhiêu nước cũng được! Thầy tôi nói:
“Nước nấu cơm căn cứ theo mực
gạo mà đong. Mực nước cao hơn mực gạo hai lóng tay là vừa. Nhưng cũng tùy
theo gạo mới gạo cũ nữa. Gạo mới th́ ít nước lại một chút, chừng một lóng
tay thôi.”
Thầy dạy tôi vậy nhưng rồi tự
tay thầy nấu hết, từ nồi cơm đến xoong canh rau, đến món tàu hũ kho. Vừa nấu
thầy vừa giải thích cho tôi rơ. Hai thầy tṛ đang lui hui dưới bếp th́ thầy
Trừng Hùng bước xuống. Thấy thầy tôi đang nêm nếm thức ăn, thầy Trừng Hùng
cười bẽn lẽn:
“Thầy để chú ấy nấu cho quen
chứ thầy làm vậy chú ỷ lại. Con chia phiên chú ấy là để tập cho chú đó.”
Thầy tôi chỉ cười, nói:
“Cũng tùy theo chuyện mà chọn
cách dạy, cách tập. Không phải muốn một người mau biết bơi cứ đem thả họ
xuống chỗ nước sâu rồi ḿnh bỏ đi hết là tức khắc người ấy sẽ biết bơi. Phải
có dạy, có giải thích, rồi phải có thời gian cho họ thực tập nữa chứ.”
“Lúc ở nhà, chín mười tuổi con
đă biết nấu cơm rồi. Chú Khang mười hai, mười ba đâu c̣n nhỏ nữa, bạch thầy.”
“Th́ tôi cũng vậy thôi. Nhưng
ḿnh ở nhà quê th́ khác. Người ở phố có khi có gia đ́nh, có con cái cả rồi
cũng chưa chắc là họ biết nấu cơm bằng ḷ củi!”
Thầy Trừng Hùng cười thẹn:
“Thôi thầy lên nghỉ để con nấu
cho chú ấy.”
Thầy tôi đáp:
“Xong hết rồi. Bày cho chú nấu
vậy thôi chứ tôi đâu có nấu ǵ.”
Thầy tôi quay lên Tổ đường.
Chờ thầy tôi đi khuất, thầy Trừng Hùng la:
“Sao để cho thầy trụ tŕ nấu
vậy? Điệu ở chùa ǵ mà vô tích sự!”
Nói rồi thầy Trừng Hùng bỏ đi.
Tôi ngồi lại một ḿnh dưới bếp, thầm cám ơn những cử chỉ tế nhị của thầy tôi.
Và tự dưng, trong ḷng tôi nẩy sinh sự bất phục đối với thầy Trừng Hùng. Lẽ
ra, theo luật Sa-di mà tôi học th́ tôi không được bất b́nh hay khinh ghét
các thầy tỳ-kheo; nhưng cái tính con nít của tôi nó vậy: nhịn mọi thứ ở bề
ngoài th́ được, nhịn nỗi bất b́nh bên trong th́ không. Con nít nhạy bén lắm
chứ. Người nào đáng phục th́ phục, người nào không đáng phục th́ không thể
phục. Đành làm một chú tiểu bướng bỉnh (ngầm) vậy!
a
Chương
Chín
(tiếp theo kỳ trước)
Chiều hôm ấy, thầy tôi lại
tiếp tục xuống bếp dạy tôi nấu ăn. Thầy bảo tôi làm cho thầy coi, cái ǵ
chưa được th́ thầy chỉ thêm. Đối phó với nồi cơm hơi nhăo như thế nào, nồi
cơm bị sống như thế nào, thầy cũng dạy tôi cặn kẽ. Đầu tiên, gặp củi ướt
không nhúm được ḷ, thầy lấy chai đèn dầu nhỏ của nhà bếp, rưới một ít dầu
lên củi, rồi đốt. Lửa cháy bén dễ dàng. Tôi thưa:
“Tại thầy Trừng Hùng cấm tụi
con xài dầu hỏa như vậy nên con không dám.”
“Tiết kiệm hả?”
“Dạ, con nghĩ là vậy.”
“Tiết kiệm là tốt! Tất cả vật
sản của Tam bảo đều như vậy hết. Giữ ǵn từng chút một, không phung phí, đó
là tỏ ư trân trọng vật phẩm cúng dường của bá tánh đem đến. Nhưng lúc cần
thiết cũng phải xài chứ! Bo bo giữ của cũng là một loại phiền năo tệ hại mà
người tu cần phải tránh. Có thấy năy giờ con nhen ḷ lửa không cháy không?
Trong trường hợp này mà cứ lo tiết kiệm th́ vừa hao hơi tổn sức, vừa tốn th́
giờ nữa. Đàng nào lợi hơn? Chịu tốn một chút dầu hỏa đi. Tại sao phải chịu
nhọc để giữ ǵn chút dầu chứ!”
Sau giờ cơm, tôi đang rửa chén
th́ thầy Trừng Hùng bước xuống nói:
“Mấy cái đít nồi cả tuần nay
đen thui hết rồi. Chùi cho sạch như lúc mới mua về cho tao coi. Kêu thằng
Thiệt xuống phụ một tay. Đáng lẽ mỗi lần nấu xong là mỗi lần chùi cho trắng
chứ không để ngày này qua ngày kia như vậy. Tụi bây ở không làm chi để rồi
phá, lo kiếm việc này việc nọ mà làm.”
Tôi không đi gọi chú Thiệt phụ
giúp mà tự động lấy mấy cái vỏ dừa lo chùi đít nồi. Chùi đến mỏi cả tay mà
nồi vẫn cứ đen. Một lúc sau th́ chú Thiệt xuống, lầu bầu trong miệng:
“Bữa nay đâu phải phiên tôi
rửa chén đâu mà bắt tôi chùi nồi!”
“Tôi đâu có bắt chú chùi.”
“Th́ ổng bắt đó. Mệt!”
Hai đứa tôi h́ hục chùi, cạy,
chà đít nồi trên cát, đủ thứ cách cho trắng nồi nhưng chỉ đỡ được phần nào
thôi. Thầy tôi nghe tiếng động rọt rẹt ngoài hiên bếp th́ bước xuống xem.
Thấy chúng tôi chùi nồi thầy cười hỏi:
“Chùi chi vậy?”
Chú Thiệt đáp nhanh:
“Dạ thầy Trừng Hùng bảo chùi
cho trắng thiệt trắng như lúc mới mua về.”
Thầy tôi cười nói:
“Nồi nấu bằng củi th́ phải
đen, mắc chi phải chùi. Chùi xong lại nấu đen nữa có phải là toi công không!
Bỏ đó đi. Ăn xong rửa nồi rồi đem úp. Đừng có bày chuyện ra đó.”
Thầy Trừng Hùng nghe được bước
xuống chữa ngay:
“Dạ, con bảo mấy chú chùi cho
sạch ngó đẹp mắt hơn chứ nồi đen điu thấy ghê quá. Mà nồi của chùa ḿnh là
nồi mới mua chứ đâu phải là nồi xài lâu năm như người ta.”
“Trước khi cũ cũng đă là mới
chứ! Có ǵ mới hoài đâu.”
Thầy Trừng Hùng chưa chịu thua:
“Với lại con cũng muốn tập cho
các chú làm việc chứ không thôi các chú ở không chẳng có chi làm.”
Thầy tôi lúc này mới nghiêm
giọng nói:
“Làm việc suốt ngày th́ c̣n
giờ đâu mà học. Phải cho mấy chú học chứ.”
“Hồi mới vào tu, con nhớ con
đâu có được sướng như mấy chú bây giờ.”
“Điều đó không có nghĩa là
phải bắt mấy chú khổ cho giống ḿnh ngày xưa. Hồi xưa ḿnh khổ th́ bây giờ
phải cầu mong cho mấy chú được sướng.”
“Sướng quá th́ tu đâu có thành
công, bạch thầy?”
“Khổ cũng không phải là cách
để thành công. Thực ra hồi xưa mấy chú tiểu bị khổ sở, thiếu thốn vật chất
là v́ chùa quá nghèo hoặc không mấy quan tâm về tài chánh nên để các chú
phải gánh. Các chú cũng không có trường lớp, ở chùa dạy chi biết nấy. Lâu
lâu mới học được dăm ba chữ. Thời giờ rảnh rang, các chú phải lo làm việc
chùa, hết việc này đến việc nọ. Nhất là các chùa nhà quê có ruộng có rẫy,
công việc chẳng bao giờ ngớt. Bây giờ th́ khác rồi. Giáo hội có chương tŕnh
đào tạo các chú ở các Phật học viện, lấy chuyện tu học làm chánh, kinh tế
cũng có Giáo hội nâng đỡ, các chú chỉ có bổn phận là chú tâm học hành chứ
đâu có ở không nữa mà thầy lo kiếm việc. Một điều nữa, hoàn cảnh các chùa ở
Nha Trang này không giống các chùa ngoài Huế đâu. Thầy lưu ư một chút th́
thấy sự sai khác. Rồi sau này, nếu có dịp vào Sài-g̣n nữa, thầy sẽ thấy
Sài-g̣n cũng rất khác xa Nha Trang. Đem nếp sống của tăng sĩ Huế mà áp dụng
cho tăng sĩ Nha Trang e có chỗ không ổn. Tôi không nói vấn đề giới luật, tôi
chỉ muốn nói về nếp sinh hoạt hàng ngày mà thôi. Phải đi nhiều, sống nhiều,
mở mắt ra mà nh́n những thực tế đó mới được.”
Thầy tôi nói rồi bỏ lên nhà
trên. Thầy Trừng Hùng vẫn đứng đó, cười thẹn rồi nói với tôi và chú Thiệt:
“Thầy trụ tŕ tiến bộ quá, tao
c̣n trẻ mà theo không kịp.”
Khi chúng tôi rời bếp để ra
sân trước th́ thầy tôi đă mặc áo thông y vào (thông y là loại áo tràng màu
nâu để mặc ra đường của các thầy tu Phật giáo tại Việt Nam, khác với áo
tràng vàng và y ca-sa là loại y phục mặc khi làm lễ). Thầy dặn chúng tôi khi
nào tưới cây th́ nhớ tưới mấy cây bồ đề của thầy mới trồng. Rồi thầy rời
chùa Linh Phong để về viện. Chúng tôi đưa thầy ra cổng tam quan. Thầy Trừng
Hùng và chú Thiệt quay vào khi thầy bước xuống tam cấp. Tôi đứng lại nh́n
theo dáng thầy một lúc. Tôi mừng rằng tôi đă chọn được một vị thầy khả kính,
độ lượng để nương theo mà tu học. Nếu chẳng may tôi chọn lầm một vị thầy có
tính ư y như thầy Trừng Hùng th́ chắc là… tôi bỏ tu sớm.
Thầy tôi vừa đến những bậc cấp
cuối cùng để bước xuống đường th́ thầy Thông Chánh từ bên viện cũng vừa mới
qua. Hai thầy gặp nhau dưới chân núi, đứng lại nói chuyện với nhau một lúc.
Tôi ngồi đó chờ thầy Thông Chánh lên.
Đường lên chùa Linh Phong có
hai lối đi bằng tam cấp: một lối là tam cấp thẳng đứng xây bằng đá, trên hai
trăm bậc dẫn từ cổng nhỏ dưới núi đi thẳng lên tam quan; một lối là tam cấp
đi ṿng xây bằng xi-măng, gồm khoảng hai trăm năm chục bậc cấp, đi ṿng qua
phía phải của cổng tam quan, ngang qua thiền thất của Ḥa thượng Phổ Tế, vào
đến sân chùa. Thầy Thông Chánh đi dốc thẳng cũng phải mất bốn phút không
nghỉ mới tới được chỗ tôi ngồi. Tới nơi, thầy cũng phải thở dốc. Tôi nói
thầy ngồi ngoài cổng tam quan cho mát, tôi vào mang nước ra cho thầy. Tôi
đang rót nước lạnh định đem ra mời thầy Thông Chánh th́ thầy Trừng Hùng chận
lại hỏi:
“Năy giờ đi đâu, sao không
ngồi luôn ngoài đó ngó xe ngó cộ chạy qua chạy lại cho sướng?”
Tôi định bỏ đi không trả lời
nhưng biết vậy là vô phép, tôi đứng lại đáp:
“Con mang nước ra cho thầy
Thông Chánh, đang đợi con ở ngoài.”
“Thầy ấy qua chơi hay có việc
ǵ không?”
“Dạ qua dạy con học.”
“Tại sao có lớp học rồi mà c̣n
học thêm chi nữa? Bộ chương tŕnh của lớp học không đủ để dạy chú à?”
Tôi thực là cứng họng, chẳng
biết phải nói sao cho thầy ấy hiểu. Vừa lúc đó, thầy Thông Chánh bước vào.
Thầy Trừng Hùng thấy thầy Thông Chánh th́ đứng dậy chắp tay xá. Thầy Thông
Chánh cũng chắp tay xá lại. Hai thầy chào nhau vui vẻ. Thầy Trừng Hùng có vẻ
kính nể thầy Thông Chánh lắm, v́ dù sao thầy Thông Chánh cũng là vị trưởng
lớp xuất sắc (trong khi thầy Trừng Hùng chỉ mới là học tăng dự thính đang cố
gắng được vào chính thức). Thầy Trừng Hùng cười giả lả:
“Mô Phật, thầy qua chơi hả? Có
thầy ghé chơi chùa nhỏ này thật là đại phúc đó nghen.”
“Khách sáo dữ vậy thầy, tôi
qua hướng dẫn chứ Khang chút bài học thôi. Xin phép thầy nghe, tại tôi phải
về lại viện, không ở lâu được.”
Nói rồi, thầy Thông Chánh kéo
tôi ra ngoài tam quan, định giảng bài mới cho tôi học. Nhưng ḷng tôi không
được vui, tôi xin thầy Thông Chánh cho nghỉ; rồi tôi kể chuyện sinh hoạt của
chùa Linh Phong cho thầy Thông Chánh nghe. Thầy Thông Chánh tỏ vẻ lo ngại
cho việc tu học của tôi. Thây cho tôi biết chút ít lai lịch của thầy Trừng
Hùng mà thầy được nghe kể lại từ một thầy khác cùng quê với thầy Trừng Hùng.
Đại khái là thầy Trừng Hùng
cũng mới xuất gia đâu chừng bảy, tám năm trước. Cứ nghe giọng tụng kinh,
nghi thức hành lễ, phong cách nói năng đi đứng của thầy th́ cũng phần nào
đoán được phần nào thời gian ở chùa của thầy rồi. Bảy, tám năm so với tôi
th́ kể như là lâu lắm. Nhưng với tuổi ba mươi của thầy Trừng Hùng th́ bảy,
tám năm xuất gia chỉ chứng tỏ rằng thầy mới xuất gia và đă xuất gia vào lúc
hai mươi ba tuổi, cái tuổi mà những chàng thanh niên thế tục không nhiều th́
ít đă thâm nhiễm mùi tục lụy và đă quen thuộc với những sinh hoạt thế gian.
Thế gian cũng như cửa đạo đều có những lối sinh hoạt riêng mà khi người ta
đă quen nếp ở mặt này th́ khó mà bắt nhịp được với mặt kia. Khi xuất gia,
thầy Trừng Hùng xin vào ngôi chùa lớn, đẹp nổi tiếng ở Huế: chùa Từ Hiếu.
Đây là ngôi chùa mà năm xưa c̣n bé, thầy được cha mẹ mang vào để làm lễ quy
y nên bây giờ xin xuất gia ở chùa này th́ cũng hợp lư; và pháp danh thầy có
được hôm nay (Trừng Hùng) cũng là pháp danh được ghi trong phái quy y thuở
nhỏ. Nhưng thầy Trừng Hùng luôn luôn hănh diện với nơi chốn xuất gia cũng
như pháp danh của ḿnh. Thầy nói rằng muốn thành chú tiểu xuất sắc, có hạnh
kiểm th́ phải vào chùa Từ Hiếu; rằng chỉ có chùa Từ Hiếu với những sinh hoạt
nề nếp cổ truyền của cả trăm năm trước để lại mới đào tạo nên những cao tăng
kiệt xuất cho Giáo hội; rằng những người xuất gia ở chùa Từ Hiếu từ trên
xuống dưới đều làm ruộng, làm rẫy, cực nhọc quanh năm suốt tháng, ăn uống
kham khổ, học ít tu nhiều, gần gũi đạo hơn là những người ở chùa khác; rằng
điển h́nh như thầy Nhất Hạnh, một tăng sĩ sáng chói, nổi danh của Phật giáo,
cũng xuất thân từ chùa Từ Hiếu này. Cho nên, không thể trách được rằng tại
sao thầy Trừng Hùng lại muốn chú Thiệt và tôi phải khổ. Thầy cho rằng phải
khổ mới tu được. Quan niệm này làm tôi nhớ đến câu nói của ông Bộ (chồng bà
vú nuôi ở Ba Ng̣i) trước đây, rằng “tu th́ phải hành, hành là
hành hạ xác thân chứ không chi khác.” Thầy Thông Chánh nói, chỉ v́ thầy
Trừng Hùng bị ảnh hưởng nếp sinh hoạt của chùa Từ Hiếu mà thôi, sống ở Nha
Trang một thời gian có lẽ thầy ấy sẽ thay đổi. Thầy khuyên tôi cứ ẩn nhẫn,
coi thời gian sống gần thầy Trừng Hùng như là thời gian thực tập hạnh nhẫn
nhục vậy.
Tôi “dạ” nhưng trong ḷng cũng
không sao ngăn được ư nghĩ rằng sở dĩ thầy Trừng Hùng muốn hành hạ chúng tôi
là v́ muốn trả thù đấy thôi. Không phải tự nhiên mà tôi nghĩ ra điều ấy. Chú
Thiệt nói với tôi đấy. Chú Thiệt có người anh em ruột tên là Giải, đang là
học tăng ở viện Hải Đức. Có lẽ chú Thiệt cũng kể lể sao đó về t́nh h́nh sinh
hoạt ở chùa Linh Phong cho thầy Giải nghe, nên thầy ấy mới đưa ra nhận xét
như vậy. Rằng có lẽ hồi thầy Trừng Hùng đi tu bị lớp đàn anh hành hạ
quá nên bây giờ hành hạ lại lớp đàn em khác cho huề. Điều này nếu
nhắm vào một thầy khác chắc tôi không dám tin. Nhưng đem áp dụng riêng cho
trường hợp thầy Trừng Hùng th́ tôi phải tin một cách mạnh mẽ, không cần xét
lại.
(lược bỏ một số đoạn từ bản
gốc)…
Tôi cố gắng không quan tâm
những điều nhỏ nhặt để cho tâm nhẹ nhàng mà tu học. Sự nỗ lực của tôi trong
giai đoạn sống ở chùa Linh Phong không phải là sự phấn đấu để vượt qua những
cực khổ của đời sống vật chất, mà chính là phấn đấu để ḷng ḿnh không bị
vướng bận hay tiêm nhiễm những cái tầm thường nhỏ nhen mà hoàn cảnh chung
quanh cố t́nh khơi động.